Đích thật Tịnh Tông dạy người là kiến lập trên nền tảng của Hiếu Kính. Tịnh Nghiệp Tam Phước ở trong Quán Kinh, vừa mở đầu liền dạy chúng ta “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng”. Người thời xưa hiểu được cho nên làm cha mẹ dạy con cái thì việc nào là quan trọng nhất? “Tôn sư trọng đạo”, họ không dạy gì khác. Thầy giáo dạy học sinh quan trọng bậc nhất chính là “Hiếu thuận cha mẹ”.
Thế nên một đứa trẻ từ nhỏ tiếp thu sự giáo dục như vậy, tập từ nhỏ thì sẽ thành thói quen, tưới tẩm từ nhỏ, dạy dỗ từ nhỏ, trong tâm địa của chúng, trong A Lại Da Thức của chúng mọc gốc rễ vững chắc, vĩnh viễn không thay đổi, chúng có thể tận hiếu. Hiếu bao gồm hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian, ở chỗ này không thể nói kỹ. Ở nhà có thể hiếu cha mẹ, thương yêu anh em, đây chính là “Đễ”, có thể báo ân quốc gia chính là “Trung”.
Thế nên trong tám đức: “Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ”, Hiếu là căn bản, bảy đức còn lại đều là Hiếu biểu hiện trên các Sự Tướng khác nhau rồi lập nên danh tướng, kỳ thật chỉ là một chữ Hiếu mà thôi. Trong Phật pháp thì Tam Học, Tứ Nhiếp, Lục Độ, vô lượng vô biên pháp môn đều là một chữ “Hiếu”, chánh pháp thế gian và xuất thế gian nhất định được xây dựng trên nền tảng của Hiếu đạo.
Khi xây dựng một đạo tràng, đại chúng cùng nhau tu tập, tại sao bộ kinh đầu tiên phải giảng là “kinh Địa Tạng”? Cơ sở vật chất của đạo tràng tức là phòng ốc, thiết bị đã xây xong, sau khi chúng ta xây dựng được cơ sở vật chất thì phải xây cơ sở tinh thần, tức là xây dựng tâm lý. Tâm chánh thì hạnh chánh, sẽ tương ứng với đạo, tương ứng với tâm tánh, tương ứng với chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
Chỗ đặc biệt thù thắng của “kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện”, Hiếu đạo bắt đầu làm từ chỗ độ mẫu thân, trong thế gian người thân mật nhất là mẹ, người cha còn kém hơn một chút. Một đứa bé ra đời nhận được sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ, ân đức đó không gì sánh bằng. Cho nên nói việc đầu tiên của hiếu thân đó là độ mẫu thân.
Trong kinh này chúng ta thấy Địa Tạng Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát tức làm người tu học pháp môn Địa Tạng này, Địa Tạng Bồ Tát không phải là một người. Phàm những ai tu học Hiếu Thân Tôn Sư thì người này chính là Địa Tạng Bồ Tát, phàm những ai tu học Từ Bi cứu độ hết thảy chúng sanh khổ nạn thì họ chính là Quán Thế m Bồ Tát Chúng ta phải hiểu ý nghĩa này.
Chúng ta phải một đời đầy đủ hết thảy [hạnh] Bồ Tát thì mới viên thành Phật đạo, đây chính là ý nghĩa chân chánh của “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”. Chúng ta phải học “Hiếu Kính” của Địa Tạng, phải học “Từ Bi” của Quán Âm, phải học “Trí Tuệ” của Văn Thù, ngày nay chúng ta nói đến lý trí, phải học “Thực Tiễn” của Phổ Hiền Bồ Tát, đây không phải là một thân đầy đủ bốn đại Bồ Tát ư.
Tứ Đại Bồ Tát nếu phân tích kỹ hơn nữa chính là vô lượng vô biên hết thảy Bồ Tát, đây gọi là Pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Từ chỗ này chư vị chắc cũng thể hội được, “kinh Hoa Nghiêm”, kinh điển Tịnh Tông hay nói “một tức là hết thảy”, một pháp môn nhất định hàm nhiếp hết thảy pháp môn. Địa Tạng hiếu kính, trong hiếu kính đương nhiên có từ bi, trong hiếu kính có lý trí, hiếu kính thực tiễn, một Địa Tạng thì đầy đủ Quán Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, không phải đều đầy đủ rồi sao? Phổ Hiền Bồ Tát thực tiễn, trong thực tiễn nhất định phải có hiếu hạnh, nhất định phải có từ bi, nhất định có trí tuệ, đó không phải là một Bồ Tát đầy đủ hết thảy Bồ Tát ư!
Thế nên mới nói với bạn “một là hết thảy, hết thảy là một”, pháp pháp viên dung, pháp pháp vô ngại, như vậy bạn mới chân thật biết được Phật pháp không thể nghĩ bàn. Thế nên chúng ta ở đây xem thấy Ngài vì mẫu thân phát tâm, việc này thân thiết hơn bất cứ việc gì khác. Dạy cho chúng ta làm sao sanh khởi tâm hiếu thuận? Độ mẹ. Mẹ đối với chúng ta có ân đức lớn lao như vậy, bất luận chúng ta ở nơi đâu, ở lúc nào, niệm niệm không quên. Niệm niệm không quên trong tâm vì muốn báo ân mẹ không những chúng ta không được làm việc sai, ngay cả một niệm ác cũng không được phép sanh khởi, tại sao vậy? Có lỗi với mẹ, đó không phải là kỳ vọng của mẹ đối với con cái.
Mỗi năm tổ chức một buổi tế lễ, đó là đề xướng Hiếu đạo, phát triển Hiếu đạo, dụng ý là ở chỗ này, là để làm lợi lạc cho người khác. “Niệm niệm đều đoạn ác, niệm niệm đều tu thiện”, đây là vì cái tâm hiếu đối với mẹ buộc chúng ta nhất định phải làm như vậy. Bạn nói sức mạnh của chữ Hiếu này bao lớn! Thúc đẩy chúng ta trên đường Bồ Đề luôn luôn tinh tấn, không giải đãi. Từ chỗ hiếu đối với mẹ làm cho chúng ta liên tưởng đến vị thầy dạy dỗ mình, không có thầy thì làm sao chúng ta hiểu được hiếu đạo, thế nên ân đức của thầy giáo không thể quên.
Cụ Phác nêu ra bốn chữ “Tri ân báo ân”, Thế Tôn nói bốn chữ này trong “kinh Đại Bát Nhã”, là pháp môn tu học của Nhị Địa Bồ Tát. Trong “kinh Đại Bát Nhã” nói Nhị Địa Bồ Tát có tám khoa mục tu học chính, “Tri ân báo ân” là một trong tám khoa mục này. Trong thời đại ngày nay rất đáng được đề xướng, xã hội hiện nay người vong ân bội nghĩa rất nhiều, vong ân bội nghĩa là tội hạnh, là lỗi lầm, khổ báo; tri ân báo ân là chánh hạnh, Bồ Tát hạnh, quả báo là lạc báo (quả báo vui sướng), không giống nhau.
Ngày nay đại chúng trong xã hội phạm phải những lỗi lầm gì, chúng ta phải hướng vào những lỗi lầm đó để chỉ dạy hơn nữa, giúp đỡ hơn nữa,như vậy mới đúng. Cho nên vì mẹ mà phát tâm, như vậy rất thân thiết, cách giáo học này làm cho chúng ta thể hội được trí tuệ cao độ của Thế Tôn, viên mãn trí tuệ, vô cùng thiện xảo phương tiện, thiện xảo phương tiện đạt đến mức cùng cực, làm cho chúng ta nghe đến, tiếp xúc đến, không thể không tin, không thể không học.
Hết thảy những thiện pháp, hết thảy những thiện hạnh đều là từ hiếu thuận mẫu thân cứu độ mẫu thân mà sanh ra, đây chân thật là căn bản. Chánh hạnh của chúng ta trên đường Bồ Đề, thành tựu càng thù thắng, thì đối với việc hiếu kính mẫu thân càng thêm viên mãn. Thế nên tôi thường nói chỉ có một người hành hiếu đạo đạt đến cứu cánh viên mãn,thành Phật; Phật quả trong Viên giáo, đây là đạt đến cứu cánh viên mãn. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, hiếu đạo còn khiếm khuyết một phần.
Tại sao chúng ta phải phát tâm độ chúng sanh? Tại sao phải phát tâm đoạn phiền não? Tại sao phải phát tâm học pháp môn, thành Phật đạo? Vì báo ân mẹ. Nếu chúng ta không làm như vậy thì có lỗi với cha mẹ, đặc biệt là đối với mẹ. Chánh giáo đại pháp của Như Lai kiến lập trên cơ sở này, thế nên “tứ hoằng thệ nguyện” là nguyện chung, bổn nguyện của hết thảy chư Phật Như Lai.
Địa Tạng Bồ Tát đặc biệt dùng “bi tâm vô cùng” hướng về chúng sanh khổ nạn, chúng sanh chịu khổ nạn càng nhiều, thì bi tâm của Bồ Tát càng nặng, thế nên trong kinh xưng Ngài là “Vĩnh viễn làm U Minh giáo chủ”. U Minh là địa ngục, thệ nguyện của Bồ Tát “Địa ngục chưa trống không, thề chẳng thành Phật”, bi tâm đạt đến cùng cực. Chỗ khổ nạn ở Địa Ngục này, những người thông thường chẳng chịu đến, người ta không chịu đến nhưng Ngài đến; người khác chẳng bằng lòng chịu khổ nạn nhưng Ngài sẵn sàng chịu.
Ở trong địa ngục nhất định phải hiện thân đồng loại với họ, nếu không hiện thân đồng loại thì làm sao chúng sanh giác ngộ! Phải tu hạnh đồng loại, chúng sanh trong địa ngục chịu những sự khổ đó, Bồ Tát ở trong cũng phải thị hiện chịu đựng những sự khổ đó, không thể đặc thù, không được ngoại lệ, như vậy mới có thể cảm hóa chúng sanh trong địa ngục [để họ] giác ngộ, sám hối quay về. Thế nên nhẫn chịu khổ nạn, đại từ đại bi, đây là Bổn Nguyện của Địa Tạng Bồ Tát, khiến cho người tu học Đại Thừa sơ phát tâm như chúng ta muốn học Địa Tạng Bồ Tát.
Hôm qua tôi nêu lên với chư vị, chữ “U Minh” còn có một nghĩa khác là “khiêm tốn hạ mình”,vĩnh viễn ở vị trí thấp hơn người khác,hết lòng nỗ lực tu học giáo hóa chúng sanh, danh văn lợi dưỡng hết thảy hưởng thụ đều dâng hiến cho người khác, tự mình vĩnh viễn ở nơi thấp kém, đây là ý nghĩa của U Minh.
(Trích: Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh Giảng Ký, tập 02)