Hiện nay, vẫn còn nhiều Phật tử tỏ ra hoang mang, băn khoăn không biết nên niệm A DI ĐÀ PHẬT hay A MI ĐÀ PHẬT. Bên cạnh đó, nếu thay “Di” thành “Mi” thì không chỉ riêng Phật hiệu A Di Đà Phật mà cả mật chú như Vãng Sanh Chơn Ngôn, hay Phật hiệu Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật… cũng đều phải thay đổi hết sao? Kết quả của những tranh biện bất đồng đã mặc nhiên đưa đến sự phân chia làm 2 nhóm tu niệm trong cùng một pháp môn tu Tịnh độ: A DI ĐÀ PHẬT và A MI ĐÀ PHẬT.
Chính vì sự phát sinh trên có ảnh hưởng không nhỏ đến thành tựu tu hành của thập phương Đại chúng, hiện tại cũng như vị lai, nay hành giả viết bài này để liễu trạch Pháp hành chơn chánh hầu mong Thiện – Tín y Pháp phụng hành, yên tâm tu niệm.
Trước khi đi sâu vào vấn đề, xin trích lại nguyên văn lời tự thuật của Hòa thượng Thích Trí Tịnh trong quyển Hương Sen Vạn Đức như sau:
“… Tại sao lại niệm “Nam mô A Mi Đà Phật?
Sáu chữ hồng danh đây nguyên là Phạn âm (tiếng Thiên Trúc).
Hai chữ đầu (Nam Mô) nguyên âm là Namo, ta quen đọc liền vần Nam mô, là lời tỏ lòng thành kính, có nghĩa là Quy y (về nương) và Quy mạng (đem thân mạng gởi về).
Chữ thứ sáu (Phật) nguyên âm là Buddha (Bụt Đa hay Bụt Thô), ta quen đọc gọn là Phật, chỉ cho đấng hoàn toàn giác ngộ (Đấng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác).
Ba chữ giữa (A Mi Đà) là biệt danh của đấng Cực Lạc giáo chủ, dịch nghĩa là Vô Lượng (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ). Như trong kinh, đức Bổn Sư tự giải thích rằng: “Đức Phật ấy quang minh vô lượng, soi suốt các cõi nước ở mười phương không bị cách ngại. Đức Phật ấy và nhơn dân trong nước của Ngài thọ mạng vô lượng vô biên vô số kiếp“.
Trong Quán Kinh nói: “Nếu người chí tâm xưng danh hiệu của Đức Phật đây, thời trong mỗi niệm diệt được tội sanh tử trong 80 ức kiếp và được vãng sanh…”.
Trong Kinh Chư Phật Hộ Niệm nói: “Nếu người nghe danh hiệu của Đức Phật đây mà chấp trì trong một ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn thời được thành tựu nhiều thiện căn phước đức. Đức Phật ấy và Thánh chúng sẽ hiện đến nghênh tiếp…“
Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Nếu người chuyên xưng danh hiệu thời đặng chứng Nhất Hạnh Tam muội và chóng thành Phật…”
Xem như lời của Đức Bổn Sư Thích Ca, đấng chân thật ngữ phán trên đây, thời thấy rằng ba tiếng hồng danh của đức Giáo chủ Cực Lạc có những năng lực bất khả tư nghị. Muốn được kết quả to tát như lời trong kinh, hành nhơn phải chí tâm xưng niệm, và phải xưng niệm đúng âm vận, chớ không nên như người Pháp goi Chợ Lớn là Sôlông, hay Bà Rịa là Baria.
Ba chữ A-mi-Đà nguyên là Phạn âm. Người Tàu đọc là A-mi-thô, và họ tụng xuôi là Á-mi-Thồ. Danh hiệu ấy truyền qua xứ Việt ta bằng chữ Tàu, biên sẵn trong các pho kinh sách Tàu. Người Việt ta cứ theo lệ phổ thông, chữ đâu đọc đó nên đọc là A-di-đà. Như đọc Nã Phá Luân để kêu Hoàng đế Napoleon (Na-po-lê-ông), cùng đọc Ba-Lê để kêu kinh đô Paris (Pari).
Với sự phiên âm bằng chữ Tàu, người Tàu đọc giống gần với nguyên âm, mà người Việt ta đọc sai quá xa. Gía như ta gặp hoàng đế Pháp mà gọi ông ta là Nã Phá Luân thời thật là đáng buồn cười. Với A-di-đà để gọi đức Giáo chủ Cực Lạc cũng theo lệ đó.
Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm Phật theo thông lệ Nam Mô A Di Đà Phật, khi chuyên niệm nhiều (mỗi ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm. Giữa lúc đó tiếng “Di” là chủ của sự chướng. Vì thế, tôi mới để ý đến chính âm vận của sáu tiếng hồng danh. Đồng thời lời của Tổ Vân Thê trong sớ sao nói: “Hồng danh Nam mô A-mi-đà Phật toàn là tiếng Phạn, chuyên trì không quên, thời cùng với pháp trì chú của Mật tông đồng nhau”, lại thúc đẩy tôi vào sự khảo cứu.
Với vần La Tinh, người Anh ghép Amita, mà tôi được thấy ở bộ Phật Học Đại Tự Điển.
Tôi đem ba chữ A-mi-đà ra hỏi, thời các Sư Tàu cũng như Cư sĩ Tàu đều đọc gằn từng tiếng một trước mặt tôi: A-mi-thô.
Hai tiếng đầu “A”và “Mi” đã nhất định, và đồng thời quyết chắc đọc “Di” là sai. Tôi còn thắc mắc ở tiếng thứ ba, vì nếu đọc Amita như vần Anh, cùng A-mi-thô như người Tàu thời với tiếng Việt có hai điều bất tiện:
1. Nghe không nghiêm và không êm.
2. Khác với thông lệ từ xưa.
Một học giả Bali và Phạn ngữ giải thích: chữ “đà” của Tàu dùng phiên âm Phạn ngữ có hai giọng:
1. Thô như danh từ “Bụt Thô” mà người tàu đọc xuôi là “Bù Thồ”.
2. Đa cũng như danh từ “Bụt Đa” (Buddha)
Với giọng “đa” để đọc chữ “thô”, nó mở đường cho tôi ghép 3 chữ lại: A-mi-đa và theo cách đọc xuôi đánh dấu huyền: A-mi-đà.
Ghép luôn cả sáu tiếng Nam mô A-mi-đà Phật, tôi nhận thấy rằng tránh khỏi cái lỗi quá khác với nguyên Âm, dù vẫn chưa được hoàn toàn, nhưng có thể gọi là nhiều phần đúng và không quá cách biệt với cách đọc phổ thông theo cổ lệ, vì trong sáu tiếng đây chỉ có đổi “di” thành “mi” mà thôi.
Sau khi tham cứu như trên xong, tôi bắt đầu chuyên chí niệm Nam mô A-mi-đà Phật, và cũng bắt đầu từ đó tôi liền nhận được kết quả.
1. Sáu tiếng hồng danh đây nổi rõ nơi tai cũng như nơi tâm, khác hẳn sự mờ mờ lọt sót của tiếng “di” trong thời trước.
2. Khi niệm ra tiếng, từ năm ngàn câu mỗi thời trở lên, môi lưỡi càng lúc càng nhại, càng chuyên, càng lanh. Khác hẳn sự trệ môi cứng lưỡi của những ngày niệm khi xưa.
3. Niệm ra tiếng với A-mi khỏe hơi hơn niệm ra tiếng của A-di khi trước, nhờ vậy mà mỗi thời niệm được lâu và nhiều.
Người chuyên niệm danh hiệu của Phật, tầng cấp đầu tiên là đến mức bất niệm tự niệm, hay niệm lực tương tục. Nếu khi niệm mà bị trệ, và tiếng Phật lại lờ mờ không nổi rõ nơi tâm thời khó mong được kết quả trên. Còn nếu trái lại thời mới có hy vọng đến đích.
Biết rằng niệm A-mi-đà được nhiều phần đúng với nguyên âm, nó sẽ đem đến cho mình cái mãnh lực bất tư nghì, diệt vô số kiếp tội thành đại thiện căn phước đức giống như pháp trì chơn ngôn (thần chú) của Mật tông mà Tổ Vân Thê đã phán. Nó sẽ đưa mình đến mức bất niệm tự niệm, vì tiếng niệm không bị trệ lụt và nổi rõ nơi tâm. Nhất là niệm A-mi-đà được khỏe hơi, nhờ đó nên được niệm lâu và nhiều. Niệm Phật được thuần thục là nhờ niệm nhiều câu, nhiều giờ và tiếng niệm nhấn rõ nơi tâm. Và mức bất niệm tự niệm đây là phần bảo đảm vãng sanh Tịnh Độ cho người chuyên niệm. Tôi tin rằng niệm gần với nguyên âm, tức là gần đúng với thật danh của Đức Giáo chủ Cực Lạc, tất dễ được tương ưng và chóng được cảm thông với Phật. Và tôi đã tự cảm thấy có lẽ đúng như thế.
Nhưng trong kỳ kiết thất 49 ngày ở tịnh thất nơi chùa Linh Sơn Cổ Tự, một hôm tôi bỗng có ý nghĩ: “Mình dù thiển trí bạc đức, song cũng là người tai mắt trong Tăng giới, và cũng có đôi phần uy tín đối với gần xa, riêng mình tự tu đã đành không ngại gì, song rồi đây, tất có người tin tưởng nơi mình, mà họ sẽ tự noi theo chỗ làm của mình, nghĩa là họ sẽ niệm Nam mô A-mi-đà Phật. Một người như thế, lần lần sẽ có nhiều người như thế, tất sau này khó khỏi đôi điều thắc mắc:
1. Bàng quang sẽ cho mình lập dị, riêng phái, phá sự đã phổ thông của cổ lệ.
2. Đem sự ngờ vực cho người đã niệm A-di khi những người này chưa hiểu thế nào là A-di và thế nào là A-mi. Và sự ngờ là điều rất chướng của pháp môn niệm Phật.
Tôi tự giải thích: “Cổ lệ đã sai thời sự sửa đổi là điều cần (tôi tự sửa đổi riêng tôi). Mình không có quan niệm lập phái riêng hay lập dị, thời cũng không ngại gì với chuyên thị phi phê bình của bàng quan”. Và với sự ngờ của những người chưa nhận chơn, sẽ giúp họ tìm tòi khảo cứu, nhờ tìm xét họ sẽ thấu rõ sự sai với đúng, và họ sẽ thâu hoạch được kết quả tốt cũng như mình.
Mặc dù tôi tự giải thích với tôi như thế, nhưng trong thâm tâm vẫn mãi băn khoăn gần suốt ngày.
Chiều hôm ấy, khi đứng dựa cửa sổ ngó mong về phía mặt trời sắp lặn, tôi bỗng thấy chữ A-mi nổi bật giữa khung trời xanh sáng, gần như chữ điện ở trước cửa của những hiệu buôn chiếu sáng trong đêm. Tôi thử ngó qua hướng khác thời không thấy, khi ngó trở lại hướng Tây thời chữ A-mi vẫn nổi y nơi chỗ cũ, khổ chữ lớn lối bốn tất Tây bề cao, và hiện mãi đến trên 30 phút mới ẩn.
Tối hôm ấy, tôi chiêm bao thấy mình đi vào một khu vườn cây cao cảnh đẹp. Giữa vườn, một dãy nhà cất theo kiểu trường học, và nghe rõ trong ấy một người xướng và số đông người hòa: Nam mô A-mi-đà Phật! Tôi tự bảo: “Ủa lạ! Câu Nam mô A-mi-đà Phật tưởng là chỉ của riêng mình cải cách, riêng mình tín hướng và riêng mình chuyên niệm. Bất ngờ ở đây, người ta cũng đồng niệm như vậy rồi”. Tôi đứng dừng trước ngõ trường chăm chú nghe xướng hòa như thế hơn 10 lần mới choàng tỉnh. Bấy giờ mới biết là mình nằm mơ.
Do hai điềm trên đây (chữ A-mi hiện giữa trời và chiêm bao nghe xướng hòa nam mô A-mi-đà Phật), bao nhiêu nỗi thắc mắc và băn khoăn nơi lòng tôi đều tan rã như khối tuyết dưới ánh nắng trưa hè…
Từ hồi nào, dù với hàng đệ tử, tôi chưa từng bảo ai bỏ niệm A-di mà niệm A-mi. Song, do ảnh hưởng ngấm ngầm mà lần lần có một số đông người xuất gia cũng như hàng tại gia niệm A-mi-đà. Đó phải chăng là do cơ duyên thời tiết nó nên như thế! Và cũng vì cớ ấy mà hôm nay có bài thuyết minh và tự thuật này.
Tôi viết bài này chỉ với mục đích gíup thêm sự nhận chơn về câu Nam mô A-mi-đà Phật cùng lịch sử của nó, cho các bạn đồng tu đã chuyên niệm như thế. Và bài này cũng chỉ truyền bá trong phạm vi các bạn đây thôi.
Tôi xin khuyên nhắc các bạn, đối với những vị đã quen niệm hay đã sẵn tín tâm nơi câu Nam mô A-di-đà Phật, nhất là người ở trong hoàn cảnh thiếu tiện lợi, các vị nên để yên cho các vị ấy niệm theo sự phổ thông cổ lệ để tránh sự ngoại chướng cho họ và cho họ khỏi sự do dự trên đường hành trì mà họ có thể vướng phải”.
(trích Hương Sen Vạn Đức
Hòa Thượng Thích Trí Tịnh)
————————————————
LỜI BÀN
Không luận tính “đúng – sai” của việc thay “Di” thành “Mi” bằng MÊ TRÍ Ta-bà vì sẽ rơi vào tranh biện không dứt khiến lao tâm tổn đức, hỏi nếu không có công phu tu hành chơn thật (Giới – Định – Huệ), sao có thể tỏ rõ thật – hư, trạch Pháp Phật truyền hầu tiến tu bất thối? Vì vậy, qua lời tự thuật trên (in nghiêng dưới đây), xét thấy có đôi điều cần luận bàn cho sáng tỏ:
1. “Nhiều năm về trước, trong thời gian niệm Phật theo thông lệ Nam Mô A Di Đà Phật, khi chuyên niệm nhiều (mỗi ngày từ hai vạn câu trở lên), tôi bị sự chướng là trệ tiếng trong lúc niệm ra tiếng và lờ mờ trong lúc niệm thầm. Giữa lúc đó tiếng “Di” là chủ của sự chướng”.
Niệm A-mi-đà được nhiều phần đúng với nguyên âm, nó sẽ đưa mình đến mức bất niệm tự niệm, vì tiếng niệm không bị trệ lụt và nổi rõ nơi tâm. Nhất là niệm A-mi-đà được khỏe hơi, nhờ đó nên được niệm lâu và nhiều. Niệm Phật được thuần thục là nhờ niệm nhiều câu, nhiều giờ và tiếng niệm nhấn rõ nơi tâm”. (hết trích)
Có những điểm cần luận rõ như sau:
– Tâm tức Phật, do đó niệm Phật là Tâm niệm, chẳng phải miệng niệm/tụng thì làm gì có chuyện bị trệ môi cứng lưỡi, trệ tiếng không suôn, mất hơi thất niệm? Đó là do sự hành trì niệm Phật căn bản đã sai lệch, từ đó tự sanh chướng không hay. Nếu lìa tâm niệm Phật, hỏi miệng niệm nào có ích gì? Còn đó lời khai thị của Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát và Tổ Bồ Đề Đạt Ma về cách hành trì “Niệm Phật Chơn Chánh” để hàng hậu học chúng ta y giáo phụng hành, từ đó mới được thành tựu, lợi ích chơn thật:
+ Khi Đức Phật hỏi khắp chư Đại Bồ Tát và hàng vô lậu Đại A La Hán trong chúng rằng: “Các vị là hàng Bồ Tát và A La Hán trong pháp Ta đã chứng quả Vô học, nay Ta hỏi các vị: Trong lúc mới phát tâm, nơi Thập-bát giới, ở giới nào mà ngộ được Viên thông, và do phương tiện gì được vào Tam Ma Địa” thì lúc ấy, Ngài Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với 52 vị Bồ Tát đồng tu liền đứng dậy, đảnh lễ bạch Phật rằng: “Bản nhân của con là dùng TÂM NIỆM PHẬT, đắc Vô Sanh Nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn người niệm Phật về cõi Tịnh Độ. Phật hỏi con về Viên thông, con do NHIẾP CẢ LỤC CĂN, TỊNH NIỆM TƯƠNG TỤC VÀO TAM MA ĐỊA là hơn cả”.
(trích Kinh Diệu Thủ Lăng Nghiêm)
+ Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã từng khai thị về hành trì niệm Phật như sau: “Nên biết niệm ở nơi Tâm, chớ chẳng phải ở Miệng. Niệm từ Tâm khởi, gọi là môn Giác Hạnh”.
(trích Kinh Bồ Đề Đạt Ma Quán Tâm Pháp)
– Muốn thành tựu nhất tâm bất loạn thì tâm chỉ miên mật nơi Phật hiệu mà thôi, ngoài ra “không biết” (nhiếp cả lục căn, tịnh niệm tương tục) thì tính đếm làm chi cho lao tâm nhọc sức, thêm vọng luống công? Vừa (miệng) niệm vừa đếm như thế (mỗi thời năm ngàn câu, mỗi ngày hai vạn câu trở lên như tự thuật) thì loạn tâm mất rồi, hỏi “nhất” tâm sao được? Lại nữa, nghiệp chướng gieo tạo bao đời, thọ khổ luân hồi sáu nẻo không sao kể xiết thì lẽ nào nay tu hành niệm Phật để tịnh nghiệp – chuyển mê khai ngộ, ta lại tính đếm kể công? Niệm Phật với tâm ngã tướng nhỏ hẹp như thế, hỏi mong được thành tựu gì?
– Tu Phật như lội ngược dòng nước xiết, hỏi tự xưa nay ai tu hành mà không từng trải qua sự chướng như hôn trầm, trạo cử, trệ phược…? Đó là bởi tam nghiệp huân tập bao đời chiêu cảm làm chướng ngại công phu, sao không tỉnh giác một lòng nhẫn nhục – tinh tấn chuyên tu, điều phục tịnh hóa mà lại mê lầm quy lỗi cho “Di” là chủ của sự chướng nơi mình, từ đó mở đường cho tà kiến – ma sự phát sinh, gây bao điều nghi hoặc, thất tín cho thập phương Đại chúng? Đây chính là TÂM CHƯỚNG, lỗi tự do mình, nào bởi do Phật hiệu A DI ĐÀ PHẬT! Nếu ai tu hành gặp chướng ngại cũng đều đổ lỗi cho Phật, cho Pháp thì thật là “Tam thế Phật oan”!
2. “Chiều hôm ấy, khi đứng dựa cửa sổ ngó mong về phía mặt trời sắp lặn, tôi bỗng thấy chữ A-mi nổi bật giữa khung trời xanh sáng, gần như chữ điện ở trước cửa của những hiệu buôn chiếu sáng trong đêm. Tôi thử ngó qua hướng khác thời không thấy, khi ngó trở lại hướng Tây thời chữ A-mi vẫn nổi y nơi chỗ cũ, khổ chữ lớn lối bốn tất Tây bề cao, và hiện mãi đến trên 30 phút mới ẩn.
Tối hôm ấy, tôi chiêm bao thấy mình đi vào một khu vườn cây cao cảnh đẹp. Giữa vườn, một dãy nhà cất theo kiểu trường học, và nghe rõ trong ấy một người xướng và số đông người hòa: Nam mô A-mi-đà Phật! Tôi tự bảo: “Ủa lạ! Câu Nam mô A-mi-đà Phật tưởng là chỉ của riêng mình cải cách, riêng mình tín hướng và riêng mình chuyên niệm. Bất ngờ ở đây, người ta cũng đồng niệm như vậy rồi”. Tôi đứng dừng trước ngõ trường chăm chú nghe xướng hòa như thế hơn 10 lần mới choàng tỉnh. Bấy giờ mới biết là mình nằm mơ”. (hết trích)
Đây chẳng phải Phật chứng mà là Ma cảnh dẫn dắt hầu lôi kéo bao người mê lầm sa vào Tà mị. Vì sao?
– Đạo Phật là đạo giác ngộ – giải thoát. Chánh – Tà dị biệt nhau ở tâm Từ Bi và Trí-huệ giác ngộ nên Chư Phật không dụng thần quyền để hướng hóa một ai.
– Tự Tánh Di Đà, duy Tâm Tịnh Độ! Tâm Phật vô lượng trùm khắp Hư không, biến khắp Pháp giới thì A Di Đà Phật Quốc – nơi mười phương ba đời Chư Phật đồng quy – cũng thế, lẽ nào chỉ tại hướng Tây nhỏ hẹp?
– Nếu công phu niệm Phật chưa đạt Vô Niệm, hành giả chưa kiến ngộ Phật tánh thì cảnh nếu có ứng hiện trong khi thiền định đều là do vọng sanh hoặc do ma chướng (5 loại ấm ma – Kinh Thủ Lăng Nghiêm), huống gì cảnh mộng. Do đó, nếu chẳng phải do Chơn tâm biến hiện từ sự giác ngộ – kiến tánh, hỏi “A Mi Đà Phật” hòa xướng lúc mộng mị có đúng thật là Phật danh vị Cổ Phật hay không hay đó là Tà ma chướng hiện dẫn dắt kẻ tu lầm?
– Đức Phật đã từng dạy: “Người tu Phật nếu dùng âm thanh, sắc tướng để cầu đạo hay hành đạo thì kẻ ấy đang hành đạo Tà”. Như vậy, với 2 điềm chẳng lành trên (chữ A-Mi hiện giữa trời và chiêm bao nghe xướng hòa Nam mô A-Mi-Đà Phật), sao chẳng “phản quang tự kỷ, hồi quang phản chiếu” mà giác tỉnh mộng mê, lại còn thay “Di” thành “Mi” để định danh lại vị Cổ Phật, há chẳng trái Phật lý ư (vô tướng – vô ngã – vô trụ)?
3. “Cổ lệ đã sai thời sự sửa đổi là điều cần (tôi tự sửa đổi riêng tôi). Mình không có quan niệm lập phái riêng hay lập dị, thời cũng không ngại gì với chuyện thị phi phê bình của bàng quan”. Và với sự ngờ của những người chưa nhận chơn, sẽ giúp họ tìm tòi khảo cứu, nhờ tìm xét họ sẽ thấu rõ sự sai với đúng, và họ sẽ thâu hoạch được kết quả tốt cũng như mình.
Tôi viết bài này chỉ với mục đích gíup thêm sự nhận chơn về câu Nam mô A-mi-đà Phật cùng lịch sử của nó, cho các bạn đồng tu đã chuyên niệm như thế. Và bài này cũng chỉ truyền bá trong phạm vi các bạn đây thôi.
Tôi xin khuyên nhắc các bạn, đối với những vị đã quen niệm hay đã sẵn tín tâm nơi câu Nam mô A-di-đà Phật, nhất là người ở trong hoàn cảnh thiếu tiện lợi, các vị nên để yên cho các vị ấy niệm theo sự phổ thông cổ lệ để tránh sự ngoại chướng cho họ và cho họ khỏi sự do dự trên đường hành trì mà họ có thể vướng phải”. (hết trích)
Có những điểm cần sáng tỏ như sau:
– Nếu quả quyết “cổ lệ đã sai” thì hỏi bao đời chư Tổ, bao bậc cổ đức tiền nhân đã kiến tánh từ câu “Nam mô A Di Đà Phật”, sử sách còn ghi, chẳng lẽ tất cả đều là hư ngụy? Nếu chư Tổ, cổ Đức hành trì sai Pháp thì sao họ lại giác ngộ, từ đó hoằng Pháp độ sanh giúp bao người kiến tánh, thế chẳng phải trái lý Nhân – Quả ư? Còn ngược lại tức tự mình (A Mi) sai vậy.
– Như đã giảng trước đây, Phật danh A DI ĐÀ PHẬT nhiếp trọn mọi căn cơ, dung thông Thiền – Tịnh – Mật. A DI ĐÀ PHẬT lại chính là mật chú mà mười phương ba đời Chư Phật đồng hộ niệm hộ trì khi chúng sanh khởi tâm niệm Phật tu hành. Đã là “mật” thì mỗi tự mỗi từ hàm thâu mật nghĩa và diệu dụng vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, giúp hành giả tiến tu vượt bậc nhờ tự lực và Phật lực cộng cùng. Tuy nhiên, Tà ma ngoại đạo đều có tà chú riêng của họ để khảo đảo, dẫn dắt người tu cho lầm đường lạc lối nên nếu hành giả tâm không chơn chánh, giới đức không nghiêm, hành trì sai lệch, ắt sẽ bị tà chú tà ngữ xen vào, quỷ thần yêu mị xâm nhập khiến sa vào Tà đạo mà chẳng tự biết. Kết quả là sự tu hành chỉ luống công vô ích mà thôi, thậm chí còn bị tẩu hỏa nhập ma, huệ mạng nơi Phật Pháp khó gìn. Vì vậy, tuyệt không có lý niệm sao cũng được, niệm gì cũng đúng của mê trí kẻ phàm phu. Nếu không dùng Thuyền Bát Nhã – hành trì đúng Diệu Pháp Phật để lướt sóng mê biển khổ thì trước muôn vàn bến đỗ rẽ lối, hành giả có bao giờ đến được bến bờ giác ngộ – giải thoát của Phật đà chăng?
Ngoài ra, có ý kiến cho rằng “Mi” chẳng khác “Di”, đều là văn tự phương tiện hầu giúp hành giả định tâm nên đừng chấp, chủ yếu tâm thành nhớ Phật khi niệm là được; hoặc hỏi rằng nếu bảo niệm A Di Đà Phật là đúng, vậy người tu hành ở các quốc gia khác không niệm A Di Đà Phật, chẳng lẽ họ tu sai (?); hoặc chớ nên phán xét bậc cao Tăng thạc đức, tòng lâm thạch trụ mà tạo nghiệp tội mang… thì hãy tịnh tâm soi sáng, rằng:
– Phật dạy: Tứ Y Pháp (y Pháp bất y Nhân, y Nghĩa bất y Ngữ, y Trí bất y Thức, y Liễu nghĩa kinh bất y Bất liễu nghĩa kinh) mà Văn – Tư – Tu, dùng trí xét suy tỏ tường (đúng) Chánh Pháp trước khi hành trì chứ chẳng dạy ai nói gì nghe nấy, thần tượng hám danh một ai để bị che mờ mắt trí khiến mê muội đúng – sai bất phân, chánh – tà lẫn lộn, tu sao cũng đúng, niệm gì cũng được. Nếu thế thì đồng nghĩa Phật chấp hay sao? Đây là tà kiến chứ chẳng phải chơn nghĩa của “Không chấp” hay “Vô trụ” nhà Phật.
– Thời mạt tâm, Chánh – Tà lẫn lộn. Phàm phu ngu muội nếu không nương tựa Chánh (Pháp) để tu hành thì ắt lạc Tà không sai. Chỉ khi nương tựa Chánh Pháp hành thiền thì mới giúp Phật Tánh tỏ rạng, hạnh Vô Trụ tăng trưởng mà thôi. Ngược lại, mê tâm mỗi lúc một sâu dày là điều không thể tránh.
– Khi chưa kiến Tánh thì bất kỳ ai, dẫu Tăng hay Tục, cũng đều có thể bị lạc Thiền, Tà mị dẫn dắt lúc công phu. Tu Phật luận về Tâm chứ không luận Tướng (tuổi tác, phẩm vị, học vị Phật học); luận Pháp chứ không luận Người. Vì thế, hãy y (Chánh) Pháp bất y Nhân, y Trí (Huệ) bất y Thức (tri kiến phàm phu) mà tu hành. Nếu như vẫn mê mờ, điên đảo với Chánh Pháp thì nên biết rằng đó là do nghiệp chướng sâu dày che mờ Tánh trí, khiến khó bề lãnh hội Diệu Pháp Như Lai.
– Người quốc gia nào thì niệm Phật theo ngôn ngữ của quốc gia đó mà tu hành, có gì để bàn, sao lại cưỡng từ đoạt lý theo ý mê của mình, gạn hỏi điều vô nghĩa, gán ghép loạn ngôn. Trong khi đó, Phật hiệu A Di Đà tự ngàn xưa đã từng hóa độ bao đời chư Tổ và muôn vạn chúng sanh tỏ ngộ Phật tánh (kiến Tánh), thành tựu Viên Thông, hàng hậu học phàm phu thời nay căn tánh thượng thừa đến đâu, trí huệ cao sâu đến độ nào sao chẳng y Pháp lãnh thọ hành trì mà mê vọng vẽ vời sự chướng, nhận giả (A Mi) làm chơn, lại thần tượng, a dua, cổ xúy thì huệ mạng tu hành sẽ về đâu? Hơn nữa, ở đời, phương danh của tổ tiên, ông bà, cha mẹ hay của bất kỳ ai, ta còn tôn trọng, quý kính, chẳng dám lạm xưng hay tùy tiện thay đổi… thì huống gì Phật-danh tôn quý bất khả tư nghì.
– Nếu bảo “Tất cả Pháp đều là Phật Pháp” nên đừng chấp, vậy thì hãy niệm “Tên mình” xem sao, có tịnh tâm – tịnh nghiệp nổi không? Chú Phật đừng trì, hãy trì Tà chú, thử xem thế nào? Nếu không, có phải là “chấp” quá chăng?
– “Chấp” hay “Không chấp” không thể “liễu” hay diễn giải bằng mê trí phàm phu, càng không phải là khẩu ngữ dùng để “phán” khi trái ý mình. Không công phu thiền định mà luận chấp hay không chấp là lời MÊ. Dùng trí mê phàm nói Pháp thì đó là MA SỰ.
* TÓM LẠI
Tu Phật, ta hãy Chánh kiến – Chánh tư duy mọi sự cho tận tường, thấu đáo. Hãy lấy Phật lý (chơn lý, Diệu Pháp Phật) làm chuẩn mực tu hành. Chớ vội tin vào bất cứ điều gì từ bất kỳ ai cả! Đừng thần tượng, hám danh một ai!
Câu niệm A Mi Đà Phật xuất phát từ tâm chướng, cảnh ma và mộng mê, Đại chúng chớ lầm tin theo. Hãy niệm A Di Đà Phật như bao đời chư Tổ, cổ Đức đã từng mà hành trì tu tiến.
Nếu nơi Pháp hành (Giới – Định – Huệ) của bản thân để liễu trạch giữa “Mi” và “Di” trong câu Phật hiệu thì DIỆU A DI ĐÀ PHẬT, CỔ TỰ CHƠN NGÔN và NHỮNG MẬT CHÚ KHAI HOA mà hành giả đã chia sẻ trong bài Pháp trước đây đều có Phật danh: A DI ĐÀ PHẬT.
DIỆU A DI ĐÀ PHẬT _()_
Cổ Thiên
Tác giả bài viết này là ai, ở đâu? Đã độ được bao nhiêu người rồi? Có những bài viết trên trang của vị ấy (Cổ Thiên) cũng để ở chế độ phải nhập password mới xem được.
Từ phàm phu như con thì cũng thấy rằng mấy ý niệm của vị ấy không đúng hoặc còn mang tâm phân biệt, chấp trước quá nặng.
Thứ nhất là niệm Phật là ở nơi tâm không phải nơi miệng đây là nói về lý. Còn trên sự thì vẫn ở nơi miệng. Thực vậy mỗi câu niệm Phật đều có tiếng, tiếng ra tai lại nghe lại vào tâm. Khi niệm đều phải miệng, lưỡi, hơi mà niệm sao lại không có trệ tiếng, mờ tiếng được. Đây là điều hiển nhiên. Nếu quý bạn sen không tin, chúng ta thử niệm 100 câu A Di Đà Phật và A Mi Đà Phật sẽ thấy khác nhau rất rõ. Khi niệm A Mi Đà Phật, câu Phật hiệu nổi rõ trong tâm, còn ngoài miệng niệm lực cũng tròn vành rõ chữ hơn, tiếng niệm nghe rõ ràng hơn. Vì thế người niệm Phật sẽ dễ diệt phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước… và do vậy dễ đạt công phu hơn trong hiện đời, vãng sinh rồi cũng dễ đạt phẩm vị cao hơn.
Từ cái cơ bản này mà vị ấy đã không thấy thì sao thấy được cái khác thưa quý vị?
Thứ 2 ngài Thích Trí Tịnh nói về 4 chữ A MI ĐÀ PHẬT nơi phía trời phía tây và trong giấc mơ mọi người đều niệm Nam Mô A Mi Đà Phật là để chúng sinh tin rằng thực sự đó là A Mi Đà Phật. Tức là ngài mượn cảnh nhiệm màu để cho chúng sinh thấy thêm rằng đó thực sự là chân tướng sự việc sau khi đã chỉ rõ phía trên chứ không phải là “ma cảnh” hay gì như của vị trên hiểu. Để chứng minh cho điều này chúng ta để ý một chút sẽ thấy nhiều người tu có công phu đã từng gặp những cảnh nhiệm màu, gặp được chư Phật, chư Bồ tát… Đó là thật chứ không có “ma cảnh” gì ở đây cả.
Thứ 3, Hòa thượng Tịnh Không và các vị tổ Trung Hoa niệm A Mi Tuo Fuo chứ không phải niệm A Di Đà Phật hay A Mi Đà Phật. A Di Đà Phật là dịch từ tiếng Trung sang Tiếng Việt không hiểu sao chữ Di đi quá xa so với từ gốc trong tiếng Phạn là Amitabha. Cho nên cái ở đây chính là chuyện dịch thuật sang Tiếng Việt chưa thực sự chuẩn xác và câu A Di Đà Phật là chuyện của riêng các Phật tử Việt Nam. Vì vậy không nên cho rằng hòa thượng Tịnh Không hay các vị Tổ niệm A Di Đà Phật. Đây chỉ là câu niệm của các Phật tử tại Việt Nam mà thôi.
Trở lại, ngay hòa thượng Thích Trí Tịnh và sau này là cư sĩ Diệu Âm Diệu Ngộ tuy chỉ ra niệm A Mi mới chuẩn xác nhưng 2 ngài vẫn cho biết rằng niệm A Di cũng vẫn có thể vãng sinh hoặc nếu ai quen mà chưa đổi sang niệm A Mi thì niệm A Di cũng vẫn có thể được.
Hai ngài Thích Trí Tịnh và Diệu Âm Diệu Ngộ đều là những bậc chân tu. Ngài Thích Trí Tịnh là bậc tòng lâm thạch trụ của Phật giáo Việt Nam. Ngài thông tam tạng kinh điển và đã dịch rất nhiều kinh Phật sang Tiếng Việt mà lời xác quyết của ngài không đáng tin bằng một vị Cổ Thiên nào đó hay sao? Hay như cư sĩ Diệu Âm Diệu Ngộ cũng đã độ biết bao nhiêu người, đạt được nhất tâm nhờ tu hành tinh nghiêm, lời ngài dạy cũng không xác quyết bằng một vị không mấy ai biết tới hay sao?
Chúng ta nếu ai có thiện căn, phước đức, nhân duyên ở mức độ nhất định trở lên thì sẽ thấy được ngài Thích Trí Tịnh chính là ngài Quán Thế Âm Bồ tát đó. Còn ngài Diệu Âm Diệu Ngộ chính là Phật A Mi Đà đó. Lời Phật, Bồ tát khuyên chúng sinh niệm mà còn hồ nghi sao?
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Mi Đà Phật
A Mi Đà Phật