
Người em Culapanthaka (Châu Lợi Bàn Đặc) rất khôi ngô, gương mặt còn sáng đẹp hơn cả anh mình, đôi mắt thơ ngây mà thông minh. Nhưng có cái lạ là cái gì cũng giỏi mà riêng học kinh điển thì học không được, vì ngài không làm sao nhớ nổi. Lúc ở nhà ngài học một biết mười, ăn ở rất có ý tứ, đạo đức hoàn chỉnh nhưng không hiểu sao lúc bước vào đạo thì học đâu quên đó, thậm chí một câu kệ đơn sơ cũng không thuộc nổi.
Thời đó, các trưởng lão luôn dạy những vị mới xuất gia bài kệ xưng tán Đức Phật để huân tập lòng kính Phật mỗi ngày, bởi nếu thiếu lòng kính Phật thì người xuất gia không có công đức nền để tiến xa trên đường tu. Và ngài Châu Lợi Bàn Đặc cũng được dạy bài kệ:
Bài kệ đơn giản chỉ gồm bốn câu ngắn ngủi nhưng ngài không tài nào thuộc nổi, cứ học câu sau là quên câu trước. Mà nếu không học thuộc bốn câu kệ xưng tán Đức Phật, không có lòng kính Phật thì không thể tích lũy được công đức vượt bậc. Nghĩ vậy nên ngài gắng sức học bằng được, nhưng dù cố gắng cách mấy ngài cũng thất bại.
Người anh Mahapanthaka đã chứng được Thánh quả tối thượng nên có đạo nhãn để nhìn suốt quá khứ vị lai của người em và biết em mình vốn không phải người ngu dốt mà chỉ đang phải trả nghiệp quá khứ, nên ngay từ cánh cửa đầu tiên là bài kệ xưng tán Đức Phật cũng không vượt qua nổi. Ngài Mahapanthaka quán sát thấy nhân duyên thích hợp đã đến, biết rằng lúc này em mình cần một tác động đặc biệt để vượt qua nghiệp lực đời xưa, nên ngài nói với em: “Có lẽ em không có cái duyên ở trong đạo vì ngay cả nền tảng ban đầu là bài kệ xưng tán Đức Phật em cũng không nắm được. Mà nếu bổn phận trong đạo em không làm tròn, trong khi ông ngoại ở nhà không ai chăm sóc thì cả đời lẫn đạo em đều thất bại, không thành tựu được công đức nào cả. Chi bằng em hãy quay về nhà chăm sóc ông, chí ít em còn có được chút công đức ngoài đời, hơn là em cứ ở đây mà không gom góp được chút phước nào thì sau khi chết em sẽ đi về đâu?” Ngài Culapanthaka vốn tự ti vì bản thân kém dở, nay nghe anh mình nói vậy lại khởi tâm suy nghĩ: “Đến anh mình cũng không còn cần tới mình nữa”. Ngài vô cùng buồn bã, day dứt, bởi lòng ngài mến đạo tha thiết, luôn cháy rực lý tưởng giải thoát không gì cưỡng lại được. Nhưng người anh nói cũng có lý nên ngài cứ phân vân do dự, thật khổ tâm.
Một hôm có ông Jivaka (Kỳ Bà) – ngự y của vua Bình Sa, người đã cúng dường vườn xoài cho Đức Phật, đến thỉnh Phật cùng chư Tăng về nhà ông thọ trai. Lúc này Đức Phật cũng đang ở trong vườn xoài đó cùng chư Tăng. Người anh Mahapanthaka đã sắp xếp mời tất cả chư Tăng cùng đi, chỉ trừ em ngài phải ở lại. Và ngài Châu Lợi Bàn Đặc quyết định sẽ đợi cho mọi người đi hết rồi lủi thủi bỏ về nhà.
Đức Phật thấu rõ tất cả mọi chuyện và cũng biết rằng cái duyên của ngài Châu Lợi Bàn Đặc rất lớn, ngài cực kỳ trí tuệ chứ không phải kẻ ngu độn tầm thường. Sự chậm lụt hay chứng mất trí nhớ tạm thời của ngài chỉ là một quả báo hiện ra mà thôi. Vì vậy vào buổi sáng khi ngài Châu Lợi Bàn Đặc dự định sẽ trốn về nhà, khi vừa bước tới cổng tinh xá thì Đức Thế Tôn bỗng nhẹ nhàng bước tới gần. Hào quang của Thế Tôn tỏa ra thật ấm áp. Người cất lời hiền từ:
– Này Culapanthaka, con đang muốn đi đâu?
– Bạch Thế Tôn, vì con quá kém dở, một bài kệ đầu tiên cũng không thể học được, con đã rất cố gắng nhưng đọc mãi mà không thuộc nổi một câu, nên anh con bảo rằng thôi con hãy về nhà chăm sóc ông ngoại để còn có được một chút công đức thế gian, hơn là ở trong đạo mà không được gì cả. Vì thế con đã quyết định ra về.
– Nhưng con có muốn giải thoát giác ngộ không?
– Bạch Thế Tôn, đó là ước mơ cháy bỏng trong lòng con. Không lúc nào con nguôi ngoai lý tưởng tu hành giải thoát.
– Thế con xuất gia với ai?
– Dạ thưa con xuất gia với Thế Tôn.
– Vậy Như Lai chưa bảo con về thì con không được bỏ về.
Đức Thế Tôn dẫn ngài tới một phiến đá dưới bóng cây. Người dùng thần thông hóa ra một chiếc khăn trắng rồi đưa cho ngài. Người nhẹ nhàng dặn dò:
– Này Culapanthaka, con hãy ngồi kiết già ở đây, cầm chiếc khăn này lau mặt, và con chỉ cần nói “Tẩy sạch dơ bẩn”. Mỗi lần lau mặt, con lại nói một câu: “Tẩy sạch
dơ bẩn”. Con cứ ngồi ở đây làm theo lời Như Lai dặn. Con đã nhớ chưa?
– Bạch Thế Tôn, “Tẩy sạch dơ bẩn” thưa Thế Tôn, con đã nhớ ạ.
Đức Thế Tôn còn ngồi thêm một lúc, chậm rãi nhắc lại câu kệ và lắng nghe ngài Châu Lợi Bàn Đặc đọc lại thêm vài lần. Lời Thế Tôn dịu dàng, ân cần đọc trước, ngài Châu Lợi Bàn Đặc giọng hết sức nghiêm trang tụng theo. Đến khi ngài thuộc hẳn, Thế Tôn mới rời đi. Rồi Người mang y bát cùng với chư Tăng cả nghìn vị rời khỏi vườn xoài, đi về tư gia của ông Kỳ Bà mà thọ trai.
Nơi khu vườn xoài, vâng theo lời Phật, ngài Châu Lợi Bàn Đặc đã ngồi kiết già và dùng chiếc khăn lau gương mặt mình, mỗi lần lau lại nói: “Tẩy sạch dơ bẩn”. Vì chiếc khăn mà Phật đưa cho ngài là chiếc khăn của thần thông nên chỉ một lát sau, chiếc khăn còn mới, trắng và mịn lúc đầu đã dần dần cũ đi, trở nên nhăn nhúm, dơ bẩn, chằng chịt những vết ố vàng, những sợi chỉ bong tróc, rồi bục rách. Ngài chợt nghĩ rằng chiếc khăn sạch ban đầu vì lau lên thân thể ngài mà trở thành dơ bẩn. Do đó, ngài nhận ra sự biến hoại của vạn vật và sự bất tịnh của thân thể con người. Phàm tất cả những gì có sinh đều phải có diệt. Như chiếc khăn trắng đẹp ban đầu đã trở thành rách nát, thân thể này dưới sự tác động của vô thường cũng sẽ tan hoại. Dưới lớp da mỏng manh kia là những chất bất tịnh như máu, thịt, gân, xương, lông, móng… Chẳng bao lâu sự già nua, bệnh hoạn và cái chết sẽ tìm đến. Xác thân sẽ bị phân hủy bởi thời gian, bị đục khoét bởi côn trùng, chỉ còn lại bộ xương mục rỗng. Cuối cùng, xương cũng tan rã thành cát bụi. Và, mọi thứ trong cuộc đời này cũng vô thường như thế. Dù là thành trì nguy nga tráng lệ hay cho đến những nhành cây ngọn cỏ cũng đều phải suy tàn, biến hoại. Ngài bất chợt buông xả cái chấp thân và ngay đó nhập luôn vào định.
Đây là một chi tiết rất hay, nghĩa là dù chúng ta tu hành mênh mông trời đất thế nào không biết, nhưng nếu có thể buông lỏng toàn thân, thường quán thân là vô thường bất tịnh thì tự nhiên ta cũng sẽ vượt qua những lầm lỗi hay cố chấp đã đóng chặt trong tâm mình.
Ngài Châu Lợi Bàn Đặc cũng vậy, nhiều kiếp trước ngài cũng đã từng nhập định nhưng chỉ vì một ít chướng duyên nên kiếp này bị ngăn cản một chút, đến khi ngài chiêm nghiệm rằng thân xác của mình thật là đáng chán, thật bất tịnh… thì căn cơ ngày xưa sống dậy, ngài buông tâm và lập tức nhập vào định.
Đức Phật lúc đó dù đang ở nhà ông Kỳ Bà nhưng vẫn biết rằng nơi vườn xoài, ngài Châu Lợi Bàn Đặc đã nhập định và căn cơ của ngài đã đến. Thế là Phật phân thân ra, nơi nhà của ông Kỳ Bà, Phật vẫn rửa tay chân, ngồi yên lặng đợi thọ thực nhưng nơi vườn xoài, một thân khác lại hiện ra trước mặt ngài Châu Lợi Bàn Đặc và nói: “Này Culapanthaka, sự dơ bẩn của thân vẫn là chuyện nhỏ, sự dơ bẩn của tâm mới là quan trọng. Thế nào là dơ bẩn của tâm? Chính là những tham lam, hận thù, ích kỷ, gian dối, hiểu lầm, suy nghĩ sai, vô minh nằm yên trong tâm. Đó mới chính là những cấu uế mà ta phải tẩy sạch”. Đức Phật vừa dứt lời, ngài Châu Lợi Bàn Đặc bừng ngộ, chứng đắc Thánh quả A La Hán. Dưới tàng cây, hào quang tỏ rạng khắp không gian. Những rặng trúc đung đưa trong gió, lá trúc xào xạc bay giữa không trung… Phật mỉm cười biến mất.
Khi ấy nơi nhà của ông Kỳ Bà, các gia nhân bắt đầu mang thức ăn ra chuẩn bị sớt vào bát cúng dường Phật và chư Tăng. Khi gia nhân chuẩn bị sớt vật thực vào bình bát, Đức Thế Tôn đưa tay chặn lại, Người cất lời hỏi:
– Này Kỳ Bà, ở tinh xá còn tỳ kheo nào hay không?
Ông Kỳ Bà đứng lên chắp tay cung kính đáp:
– Bạch Thế Tôn, trưởng lão Mahapanthaka đã cho biết không còn vị tỳ kheo nào trong tinh xá.
– Này Kỳ Bà, vẫn còn một vị tỳ kheo, hãy quay về tìm.
Phật không cho phép sớt bát, thế là thức ăn được múc trở lại để hâm nóng. Còn ông Kỳ Bà lập tức cho vài gia nhân nhảy lên ngựa chạy về vườn xoài tìm kiếm. Vào đến nơi họ ngỡ ngàng thấy đến cả nghìn vị Tỳ kheo giống hệt nhau. Mỗi vị lại đang làm một công việc riêng. Người thì đi, người thì đứng, người tọa thiền, người kinh hành, có người đang quét lá,…
Vì đã đắc đạo nên ngài Châu Lợi Bàn Đặc có thể phân ra làm một nghìn thân khác nhau. Còn những gia nhân thì quá đỗi ngạc nhiên không hiểu tại sao vẫn còn đến cả nghìn vị ở trong tinh xá mà cả nghìn vị không khác nhau một chút nào. Họ lập tức quay về tinh xá quỳ xuống bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, trong tinh xá có một nghìn vị trông giống hệt như nhau.
Lần này Đức Phật cố ý nhấn mạnh nên Người hài hước một chút:
– Hãy đến hỏi ai là Culapanthaka thì mời về đây.
Họ quay về tinh xá quỳ xuống hỏi:
– Xin cho hỏi vị nào là Culapanthaka?
Một nghìn người đều cất tiếng:
Ta là Culapanthaka.
Không biết xử lý thế nào, họ lại gấp rút phi ngựa về hỏi Phật. Phật bảo họ hãy đến hỏi một lần nữa, nghe tiếng ai trả lời đầu tiên thì hãy mời vị đó. Họ phóng ngựa lại hỏi:
– Thưa vị nào là Culapanthaka?
Hiểu ý Phật, ngài Châu Lợi Bàn Đặc biết không phải là lúc đùa nữa nên đã cất tiếng đầu tiên. Các gia nhân vui mừng đến quỳ xuống thỉnh ngài về thọ trai, quả nhiên chín trăm chín mươi chín vị kia lập tức biến mất.
Khi ngài đến nơi, các tỳ kheo sửng sốt thấy gương mặt ngài sáng rực, oai nghi đường bệ. Sau khi thọ trai xong, theo thông lệ thì Phật sẽ thuyết pháp, nhưng hôm đó Phật lại bảo ngài Châu Lợi Bàn Đặc hãy thuyết pháp cho tín chủ. Vâng lời Phật, ngài ở trên pháp tòa rống lên tiếng rống của con sư tử, diễn giảng thao thao bất tuyệt những nghĩa lý sâu sắc khiến mọi người bất ngờ. Trừ những vị đã đắc Thánh quả, còn lại ai cũng quá đỗi ngạc nhiên không hiểu tại sao một con người chậm lụt, ngay cả một bài kệ đầu tiên cũng không thuộc nổi mà ngày hôm nay đường bệ, đĩnh đạc, trầm hùng, sáng rực, thông suốt kinh tạng, biện tài vô ngại như thế.
Đến chiều, mọi người mới hỏi Phật về sự kiện lạ lùng đó và Đức Phật đã kể lại nhân duyên đời xưa, vào thời Đức Phật Ca Diếp, ngài Culapanthaka cũng là một vị đại tăng tu hành rất tốt nhưng chỉ vì không kiềm được tâm tự cao và không đủ lòng thương yêu nên đã cười nhạo người huynh đệ kém dở. Và cái nghiệp nằm đó đến kiếp này phải trả, khiến cho suốt một năm trời ngài phải dằn vặt đau khổ, bị mọi người chê trách trở lại.
Ta nhớ điều này. Chúng ta cười nhạo người kém hơn mình vì hai điều, thứ nhất là do ta tự cao, thứ hai là do ta không thương yêu người đó. Nếu đủ khiêm hạ và đủ lòng thương yêu thì ta đã không chê bai người kém hơn mình. Vậy từ đây về sau, hễ mở miệng chê bai ai là chúng ta biết ngay mình vừa phạm hai cái lỗi như ngài Châu Lợi Bàn Đặc xưa kia và sẽ phải trả giá rất thê thảm. Do đó, hãy dè dặt cẩn trọng khi muốn khinh chê hay chỉ trích bất cứ ai…
St