Nguyện thứ mười bảy: “CHƯ PHẬT XƯNG THÁN NGUYỆN”
Kinh văn: “Ngã tác Phật thời, thập phương thế giới vô lượng sát trung, vô số chư Phật, nhược bất cộng xưng thán ngã danh, thuyết ngã công đức, quốc thổ chi thiện giả, bất thủ chánh giác”.
Đây là chương thứ chín của đại nguyện, là nguyện thứ mười bảy trong bốn mươi tám nguyện: “Chư Phật xưng thán nguyện”. Phần trước đã báo cáo qua với quí vị rồi, 48 nguyện Di Đà, từ nguyện thứ mười lăm là “Thọ mạng vô lượng”, “Thanh Văn vô số”, “Chư Phật xưng thán” cho đến “Thập niệm tất sanh” đều là phần thù thắng nhất, quan trọng nhất ở trong 48 nguyện, đặc biệt là nguyện này. Cổ đức nói cho chúng ta biết, nếu như không có nguyện này thì tâm nguyện của Phật A Di Đà lớn bao nhiêu cũng không thể viên mãn. Cho dù xây dựng thế giới Cực Lạc viên mãn, để dành cho người niệm Phật mười phương làm đạo tràng tiến tu, nhưng có ai biết? Nếu như không có người biết, chúng ta cũng sẽ không phát tâm muốn đi đến thế giới Cực Lạc. Sự việc này nhất định cần tất cả chư Phật Bồ Tát vì mọi người chúng ta giới thiệu, gửi gắm, chúng ta mới biết có một vị Phật A Di Đà, biết có một thế giới Cực Lạc. Cho nên, nguyện này là thù thắng hơn hết, hơn nữa, không có nguyện này không được. Chúng ta cũng có thể xem nguyện này như là A Di Đà Như Lai ở trong pháp giới đã lập một ngôi trường đại học Phật giáo, đã lập một thôn Di Đà với quy mô vĩ đại. Thế giới Cực Lạc chính là thôn Di Đà lớn, nhất định cần tất cả chư Phật Như Lai mười phương ba đời cùng nhau giúp Phật A Di Đà chiêu sinh, chúng sanh trong thế giới mười phương mới biết có một nơi chốn như vậy. Nơi này là nơi mà tất cả chư Phật đều tán thán.
Chúng ta học Phật với mục đích là gì? Chư Phật Như Lai giáo hóa chúng sanh với mục đích gì? Chúng ta cần phải hiểu rõ, cần phải sáng tỏ. Sao gọi là Phật? Nếu như học Phật mà ngay cả vì sao gọi là Phật, vì sao gọi là Bồ Tát đều hiểu không rõ ràng, như vậy làm sao có thể nói là không mê tín chứ? Danh từ Phật, Bồ Tát này là tiếng Ấn Độ, Đại sư dịch kinh cổ đại vẫn giữ nguyên âm gốc của tiếng Phạn, dùng âm dịch. Điều này ở trong quy tắc dịch kinh thuộc vào loại “Tôn trọng không dịch”. Không phải không dịch được, mà là tôn trọng đối với cách xưng hô này nên dùng âm gốc của nó. Ý nghĩa tương đồng với thánh nhân, hiền nhân mà người Trung Quốc gọi. Phật là thánh nhân, Bồ Tát là hiền nhân. Vì sao gọi là thánh? Ở trong từ điển Trung Quốc giải thích, đối với lý sự, nhân quả của vũ trụ nhân sinh thông đạt hiểu rõ thì người này được gọi là thánh nhân. Người học tập theo thánh nhân, làm học trò của thánh nhân, một lòng một dạ muốn học thánh nhân thì người này được gọi là hiền nhân. Ở trong Phật pháp, ở trong kinh điển giải thích, “Phật” phiên dịch là bậc trí, bậc giác. Trí là trí tuệ. Trí tuệ đạt đến cứu cánh viên mãn, đối với tất cả pháp thế xuất thế gian không có gì không giác ngộ (giác ngộ tức là không mê hoặc), thảy đều giác ngộ, thảy đều sáng tỏ thì người này chúng ta tôn xưng họ là Phật Đà. Học Phật Đà, làm đệ tử của Phật Đà, một lòng một dạ tu học, cầu trí tuệ, cầu giác ngộ, người như vậy được tôn xưng là Bồ Tát. Vì vậy, chúng ta không nên xem và ứng xử với Phật Bồ Tát như thần tiên, vậy là sai rồi! Thần tiên so với Phật Bồ Tát còn phải ở dưới một cấp.
Thần có thiên thần, chúng ta xem thấy trong kinh Phật, thiên thần Sắc Giới, thiên thần Vô Sắc Giới, ở trong đây gồm cả Đại Phạm Thiên Vương, Ma Hê Thủ La Thiên Vương, họ thống lĩnh tam thiên đại thiên thế giới, họ vẫn là học trò của Phật, vẫn là học trò của Bồ Tát, là học trò tại gia của Phật Bồ Tát, phát nguyện hộ trì Phật pháp. Đây là điều chúng ta phải nhận biết rõ ràng. Phật Bồ Tát không phải thần tiên. Chúng ta không nên học làm thần tiên, học làm thần tiên là hỏng rồi, vẫn phải ở trong lục đạo luân hồi, chưa thể ra khỏi được. Chúng ta phải học chư Phật Bồ Tát, trí tuệ chân thật, trí tuệ vô lượng, vậy là đúng rồi. Chỉ có trí tuệ mới có thể giải quyết được vấn đề.
Vấn đề trong thế gian này của chúng ta rất phức tạp, điều này mọi người đều biết. Trên trời cũng có vấn đề. Người Trung Quốc chúng ta thường tán thán Ngọc Hoàng Đại Đế, rất nhiều tôn giáo tôn xưng ông là Thượng Đế, trong kinh Phật gọi là Đao Lợi Thiên Chủ. Họ cũng có phiền phức, họ cũng có oan gia, A-tu-la thường hay đến kiếm chuyện gây sự, khiến cho cung trời cũng không yên ổn. Quí vị đã xem “Tây Du Ký”, Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung. Tôn Ngộ Không chưa chắc đã náo thiên cung, nhưng vua A-tu-la thường hay đại náo thiên cung. Đây là sự thật chứ không phải giả. Điều này nói rõ, trên trời cũng không thái bình, làm vua trời cũng không có gì là ghê gớm. Nói tóm lại, những điều này thuật ngữ hiện nay của chúng ta còn gọi là vấn đề xã hội. Trên trời, nhân gian, quỷ thần cũng đều có vấn đề xã hội.Chúng ta ngày nay thấy rất rõ ràng, rất sáng tỏ, những vấn đề xã hội này rất khó giải quyết. Chính trị không giải quyết nổi, cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật vì chúng ta biểu hiện từ bỏ địa vị quốc vương. Thích Ca Mâu Ni Phật là vương tử, vấn đề xã hội nếu chính trị giải quyết được, Ngài làm quốc vương thì vấn đề chẳng phải được giải quyết rồi sao? Tại sao phải từ bỏ vương vị chứ? Chứng tỏ vấn đề này chính trị không thể giải quyết. Vũ lực có giải quyết được không? Cũng không được. Chúng ta xem thấy ở trong truyện ký của Thích Ca Mâu Ni Phật, Thế Tôn võ nghệ siêu quần, Ngài có thể làm tướng quân, có thể làm thống soái. Vũ lực không thể giải quyết, nên Ngài cũng từ bỏ nó luôn, Ngài cũng không làm tướng quân, cũng không làm thống soái. Nói thêm với quý vị, kinh tế không thể giải quyết, điều này quý vị nhìn thấy rất rõ ràng. Khoa học kỹ thuật cũng không thể giải quyết. Không những không thể giải quyết, mà mặt trái của khoa học kỹ thuật sẽ đem lại đại kiếp nạn cho nhân loại. Ngày nay quý vị đều hiểu được, chiến tranh không bùng nổ thì thôi, nếu bùng nổ thì sẽ là chiến tranh hạt nhân. Có rất nhiều người đều nói, chiến tranh thế giới thứ ba là cuộc chiến tranh chung kết trong lịch sử nhân loại. Tức là nói, sau khi kết thúc cuộc chiến tranh này thì thế gian sẽ không còn chiến tranh nữa. Tại sao vậy? Toàn bộ bị hủy diệt hết. Văn minh khoa học kỹ thuật khó nhọc vất vả trong hai – ba trăm năm này sẽ bị chiến tranh hạt nhân hủy diệt toàn bộ, nhân loại lại phải quay về đời sống nguyên thủy. Đây là khoa học kỹ thuật không thể giải quyết vấn đề.
Cái gì có thể giải quyết vấn đề vậy? Giáo dục. Cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật từ bỏ hết tất cả, cả đời theo đuổi vào công tác giáo dục xã hội. Chúng ta phải hiểu thật rõ, Thích Ca Mâu Ni Phật là người thế nào vậy? Là nhà giáo dục xã hội đa nguyên văn hóa, giống như Khổng Lão Phu Tử vậy, đáng được người tôn kính, đáng được quỷ thần tôn kính, thiên vương đều tôn kính. Chúng ta thường hay xem thấy ở trong kinh, Phật được người tôn xưng là “Thiên nhân sư”, là thầy dẫn đường của nhân gian và trời, dùng trí tuệ chân thật chỉ dạy chúng ta biết chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Sau khi hiểu rõ chân tướng thì vấn đề tự nhiên sẽ được giải quyết. Cho nên Phật giáo là giáo dục, hoàn toàn không phải tôn giáo. Âu Dương Cánh Vô thời kỳ đầu Dân Quốc nói rất hay, Phật giáo không phải tôn giáo, không phải triết học, Phật giáo là cái tất yếu cho thế giới ngày nay. Tất yếu, chữ “Tất” này vô cùng khẳng định, chỉ có loại giáo dục này mới có thể mang lại ổn định xã hội, thế giới hòa bình, nhân dân thật sự hạnh phúc. Nhưng nền giáo dục tốt như vậy cũng cần phải có người giúp đỡ thúc đẩy, nhà Phật gọi là hộ pháp. Cho nên, Thích Ca Mâu Ni Phật đem sự nghiệp lớn này phó thác cho quốc vương, đại thần, yêu cầu họ dùng địa vị, quyền lực của mình để thúc đẩy nền giáo học này, như vậy thì sự cống hiến của Phật pháp đối với xã hội mới có thể thật sự thành hiện thực. Nếu như không có những người này ra sức thúc đẩy thì nền giáo học tốt như vậy cũng sẽ bị chôn vùi chứ không phát triển, không có ai biết. Đây là điều mà chúng ta nhìn thấy ở trong hoàn cảnh sinh hoạt cả đời từ chính bản thân của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ở chỗ này chúng ta lại nhìn thấy A Di Đà Phật. A Di Đà Phật không xuất hiện ở thế gian chúng ta mà ở một thế giới khác. Có người nói, thế giới này cách thế giới của chúng ta mười vạn ức cõi Phật, ở bên đó có một thế giới rất lớn gọi là thế giới Cực Lạc. Chúng ta nghe cách nghĩ này lập tức liền liên tưởng đến, Phật A Di Đà có lẽ là người ngoài hành tinh, vì ngoài không gian còn có một thế giới như vậy thì có lẽ Ngài là người ngoài hành tinh. Cách nghĩ này được xem là khá thông minh rồi, nhưng mà không chính xác. Tại sao không chính xác vậy? Người ngoài hành tinh vẫn ở cõi người, họ vẫn là phàm phu, họ không phải là Phật. Nhà Phật nói sáu cõi, sáu cõi không phải do Phật nói đầu tiên, mà tôn giáo cổ xưa Ấn Độ nói đầu tiên. Thời gian trước, Singapore có một cuộc triển lãm liên kết chín tôn giáo. Quí vị đều đã đi xem rồi, Phật giáo chúng ta xếp ở vị trí thứ tư. Thứ tự sắp xếp thế nào vậy? Theo lịch sử mà sắp xếp. Lịch sử sớm nhất là Ấn Độ giáo, ở trong kinh Phật gọi là Bà La Môn giáo, so với lịch sử Phật giáo phải sớm hơn trên 2.000 năm. Đây là điều mà chúng ta đã nhìn thấy ở nơi đó. Ngay cả lịch sử của Bái Hỏa giáo cũng lâu hơn Phật giáo, cũng sớm hơn Phật giáo. Những tôn giáo cổ xưa này của Ấn Độ, họ cũng tu định, tu rất thành công. Định công có thể đột phá được tần số không gian. Cái mà chúng ta gọi là không gian ba chiều, không gian bốn chiều, không gian năm chiều, ngay cả đến không gian vô hạn, dùng thiền định có thể đột phá.
Hiện nay nhà khoa học chứng thực, quả thật có sự tồn tại của không gian khác nhau, nhưng khoa học kỹ thuật hiện nay vẫn chưa có cách đột phá, cũng chính là nói, nhân loại chưa có cách gì nhìn thấy quá khứ, chưa có cách gì nhìn thấy vị lai. Thế nhưng ở trong thiền định có thể đột phá, người có năng lực này sẽ nhìn thấy rất rõ ràng tình trạng ở trong sáu cõi. Họ nhìn thấy trời Dục Giới, nhìn thấy trời Sắc Giới, nhìn thấy trời Vô Sắc Giới, nhìn thấy cõi súc sanh. Cõi súc sanh chúng ta có thể nhìn thấy một phần nhỏ, còn có phần lớn hơn chúng ta vẫn không nhìn thấy. Tại sao vậy? Vì do không cùng tần số không gian sinh hoạt với chúng ta. Cõi ngạ quỷ với tần số không gian của chúng ta không giống nhau, nên chúng ta không nhìn thấy. Cõi địa ngục chúng ta cũng không nhìn thấy. Họ chính mắt nhìn thấy, cho nên ở trong kinh điển của họ, họ nói rất rõ ràng, rất minh bạch về tình trạng của sáu cõi luân hồi. Nhưng vẫn rất đáng tiếc, thấy thì nhìn thấy rồi, thấy rất rõ ràng, rất minh bạch rồi nhưng rốt cuộc sáu cõi từ đâu mà có thì không biết! Sáu cõi từ đâu mà có? Ở trong sáu cõi tại sao lại có sự biến hóa nhiều như vậy? Vấn đề này họ chưa có biện pháp, họ cũng đang nghiên cứu, cũng đang thảo luận. Có động cơ nghiên cứu thảo luận, ở trong Phật pháp gọi là cảm. Chúng sanh có cảm, Phật liền có ứng, cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sinh vào thế gian này giúp đỡ mọi người giải quyết vấn đề này. Điều này cũng chứng tỏ công phu thiền định của họ vẫn chưa đủ, cao nhất chỉ mới tu đến tứ thiền bát định, cho nên đối với vấn đề này quan sát được rất rõ ràng nhưng không biết được nguồn gốc của nó. Công phu thiền định của Phật cao hơn rất nhiều so với họ, họ không theo đuổi kịp.
Phật đem chân tướng sự thật này nói ra rồi. Vũ trụ từ đâu mà có? Hình thành như thế nào? Mạng sống từ đâu mà có? Thế gian, nhà Phật nói thế gian thì phạm vi này thật là quá lớn, không phải chỉ nói một địa cầu này, địa cầu này quá nhỏ. Thế gian nhà Phật nói là thời gian và không gian vô tận. Quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, đây là nói thời gian. Không gian thì rộng lớn không có bờ mé. Tất cả mọi thứ ở trong đây bạn đều phải biết, đều phải hiểu rõ, hoàn toàn không có nghi hoặc thì vấn đề này mới được coi là giải quyết viên mãn. Nội dung chính của nền giáo dục nhà Phật là những điều này. Phật nói cho chúng ta biết, nội dung này chính là đức năng vốn có ở trong tâm tánh của bản thân chúng ta, loại trí tuệ có thể lý giải viên mãn này cũng là trí tuệ vốn có trong tự tánh chúng ta, đều không phải đến từ bên ngoài. Đây là đem toàn bộ nội dung của nền giáo học Phật pháp nói ra rồi. Thích Ca Mâu Ni Phật như vậy, thì tất cả chư Phật Bồ Tát ở thế giới mười phương giáo hóa tất cả chúng sanh cũng như vậy, không có ngoại lệ. Đây là nền giáo dục vĩ đại, đích thực cứu cách viên mãn. Ai biết vậy? Chỉ có chư Phật Như Lai mới hiểu rõ triệt để, cho nên Phật A Di Đà không thể không phát nguyện mời tất cả chư Phật Như Lai làm trợ thủ cho Ngài. Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta cũng không ngoại lệ.
Thời triều Đường, Thiện Đạo Đại sư đã từng nói một câu: “Chư Phật sở dĩ xuất hưng thế, duy thuyết Di Đà bản nguyện hải”. Ý nghĩa của hai câu nói này chúng ta phải hiểu. Ý là nói tất cả chư Phật xuất hiện ở thế gian, giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa chúng sanh chính là để khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc, chỉ vì mỗi một việc như vậy. Đã vì một sự việc thì Thích Ca Mâu Ni Phật vào năm đó giảng một bộ kinh Di Đà chẳng phải là đủ rồi sao? Tại sao còn phải giảng nhiều kinh điển như vậy? Đáp án đều ở trong kinh, chỉ tại bản thân chúng ta lơ là không chú ý, không nhìn thấy. Không nhìn thấy cái gì vậy? Thật sự lơ là, chúng ta học kinh giáo như vậy cũng nên bị xử phạt. Tôi nói ra, mọi người nghe xong đều rất quen tai, lời nói này nghe rất nhiều rồi, trong kinh cũng đã xem không ít. Phật dạy chúng sanh, chúng sanh căn tánh không giống nhau. Phật giáo hóa chúng sanh, quí vị phải nhớ kỹ, vĩnh viễn là bị động, hoàn toàn không bao giờ chủ động chỉ dạy, đây là chánh lý. Chủ động dạy người là bản thân bạn có ý, hay nói cách khác, bản thân bạn chắc chắn có phân biệt, chấp trước. Chư Phật Bồ Tát không có, đây là điểm chúng ta phải học. Cho nên tôi thường hay khuyên các đồng tu, nếu bạn muốn chân thật học Phật, thật sự muốn có thành tựu trong Phật pháp, cũng chính là bạn thật sự muốn khai ngộ, thật sự muốn đoạn phiền não, thật sự muốn có trí tuệ thì trước tiên phải đem cái ý nghĩ khống chế đối với tất cả người, tất cả sự, tất cả vật đó buông xả đi. Phật không có ý nghĩ này, Phật đối với tất cả người, sự, vật trong hư không pháp giới hoàn toàn không có ý nghĩ khống chế, hoàn toàn không có ý nghĩ chiếm hữu, cho nên Phật giáo hóa chúng sanh là bị động, không phải chủ động. Nếu như Phật thật sự là chủ động thì tôi tin Ngài chỉ giảng một bộ kinh A Di Đà, những kinh khác đều không giảng. Khi bị động, bạn muốn tôi giảng cái gì thì tôi sẽ giảng cho bạn cái ấy. Đây là sự thật. Cho nên, Phật ứng cơ thuyết pháp. Căn cơ của chúng sanh vô lượng vô biên, người này muốn thỉnh Ngài giảng cái này, người kia thỉnh pháp môn nọ, Phật bèn giảng vô lượng vô biên pháp môn. Vô lượng vô biên pháp môn được nói ra là do như vậy. Đây là điểm chúng ta phải học tập. Nếu như nói Phật chủ động, đó chỉ là một pháp môn: Thành thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Ở trong kinh Phật nói cho chúng ta biết chân tướng sự thật này, giáo hóa chúng sanh chân tướng sự thật.
Phật đem tất cả căn cơ chúng sanh chia thành ba bậc. Người bậc thượng, chúng sanh căn thục thì giảng pháp môn Tịnh Độ. Sao gọi là căn thục? Là thiện căn, phước đức, nhân duyên của họ chín muồi, họ ở trong một đời này có thể đi làm Phật rồi, đối với những người này thì giảng pháp môn này. Quí vị nhất định phải hiểu rõ, chúng ta tiếp xúc được pháp môn này, nếu như có tín tâm, có nguyện tâm thì bạn chính là chúng sanh căn thục. Hay nói cách khác, từ vô lượng kiếp đến nay, ngày nay cơ hội làm Phật của bạn đến rồi. Việc này quá hy hữu, quá khó được! Cư sĩ Bành Tế Thanh nói, vô lượng kiếp đến nay một ngày hy hữu khó gặp. Chúng ta gặp được rồi, ta phải làm Phật rồi. Quí vị thử nghĩ xem, có rất nhiều người không tin, muốn phá hoại, đó là lẽ đương nhiên. Bạn thử xem phong cách của họ có giống thành Phật hay không? Họ không giống, nghiệp chướng sâu nặng. Phong cách của họ không giống thành Phật thì họ làm sao có thể tiếp nhận pháp môn này được? Không thể tiếp nhận, Phật có biện pháp, Phật không bỏ chúng sanh, Phật vô cùng yêu thương chúng sanh, căn chưa chín muồi thì giảng pháp môn thấp hơn một bậc. Vì chưa chín muồi nên phải giảng pháp môn khác, giúp cho họ chín muồi. Đây là đối với người trung căn. Người căn bậc hạ, họ vẫn chưa trồng thiện căn. Chưa trồng thiện căn thì giúp họ trồng thiện căn. Người đã có thiện căn thì giúp cho họ chín muồi. Người đã chín muồi thì giúp cho họ đi làm Phật. Pháp môn Tịnh Độ là nói đối với người thiện căn đã chín muồi, là giúp cho bạn ở ngay trong đời này đi làm Phật. Phật ở trong kinh nói rất rõ ràng, chúng ta phải nhớ kỹ, căn tánh chúng sanh không giống nhau nên phương tiện và cách thức mà Phật giúp tất cả chúng sanh cũng khác nhau. Cho nên, câu này của Thiện Đạo Đại sư nói rất hay.
Bất kể đối với loại chúng sanh nào, cũng tức là nói, Thế Tôn bất kể giảng giải bộ kinh điển nào, pháp môn nào, đến cuối cùng đều là quay về Tịnh Độ. Điều này chúng ta đã nhìn thấy ở trong Đại kinh. Tiểu thừa thì không bàn. Tại sao vậy? Chỗ quay về của Tiểu thừa là pháp giới tứ thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật ở trong thập pháp giới, chỗ quay về của họ là pháp giới tứ thánh. Chỗ quay về của Đại thừa, trong Đại thừa Trung Quốc có tám tông phái, ngoài tông Tịnh Độ ra, bảy tông phái Đại thừa khác nếu thật sự tu thành công rồi thì sẽ quay về Thế giới Hoa Tạng. Nếu muốn tu về thế giới Hoa Tạng, không dễ đâu, bạn vẫn còn phân biệt, vẫn còn vọng tưởng, vẫn còn chấp trước, sáu cõi luân hồi bạn còn không thoát nổi thì làm gì có phần trong thế giới Hoa Tạng chứ? Không những không có phần trong thế giới Hoa Tạng, mà thấp nhất ở trong pháp giới tứ thánh là Thanh Văn bạn cũng không có phần. Làm sao biết được vậy? Trong kinh Kim Cang nói với chúng ta, sơ quả Tu Đà Hoàn không nghĩ mình chứng Tu Đà Hoàn thì họ mới đích thực có thể chứng quả Tu Đà Hoàn. Nếu như nói họ có ý nghĩ chứng được Tu Đà Hoàn, có ý nghĩ “Tôi chứng được Tu Đà Hoàn” thì họ là đồ giả, không phải thật. Tại sao vậy? Tu Đà Hoàn đã không còn ngã rồi, họ không còn chấp trước có ta. Có ta là phàm phu, vô ngã là thánh nhân. Cho nên chúng ta xem thấy ở trong kinh Kim Cang: “Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát”. Năm xưa khi tôi mới bắt đầu học Phật, vẫn cho rằng Bồ Tát mới lìa bốn tướng, có lẽ Tiểu thừa không lìa bốn tướng. Tỉ mỉ xem thử lại kinh Kim Cang thì không phải vậy, sơ quả đã lìa bốn tướng rồi. Sơ quả Tu Đà Hoàn đã là không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả. Bạn thử nghĩ xem, cái này khó biết bao! Chúng ta mỗi ngày vẫn chấp trước thành kiến của mình; tôi mới là đúng, anh là không đúng, đây là tri kiến phàm phu. Người thật sự có thành tựu, anh nói vậy là đúng, họ nói thế kia không đúng cũng đúng, không có gì là không đúng. Tại sao vậy? Không có phân biệt, không có chấp trước, vậy mới thật sự nhập cảnh giới. Chúng ta ngày nay có làm được không?
Lúc tôi mới bắt đầu học Phật, nghe Pháp sư Bạch Thánh giảng kinh, thầy có kể một câu chuyện, một công án trong cửa Phật. Thầy kể có hai người xuất gia tranh chấp, đến chỗ lão Hòa thượng để thưa kiện, nhờ lão Hòa thượng phân xử. Lão Hòa thượng hỏi thầy A, thầy A nói xong, lão Hòa thượng gật đầu, chú đúng! Thầy B nghe xong, lòng không phục, lại nói một tràng ra với lão Hòa thượng. Lão Hòa thượng nói, chú cũng đúng! Một thị giả đang đứng bên cạnh lão Hòa thượng, đợi cho hai thầy kia đi rồi, thị giả hỏi lão Hòa thượng: “Lão Hòa thượng à, lời Hòa thượng nói rốt cuộc dường như có vấn đề thì phải?”. Lão Hòa thượng nhìn vào thị giả nói, chú cũng đúng! Lão Hòa thượng là đúng thật, ba người kia đều có vấn đề. Lão Hòa thượng là không tướng ngã, không tướng nhân, không tướng chúng sanh, không tướng thọ giả, bạn thấy vấn đề chẳng phải đã được giải quyết toàn bộ rồi sao? Đều hóa giải rồi, đều không còn tranh chấp nữa, ai nấy đều đúng. Đây là người chân thật tu hành, ở trong tâm không có thị phi, cũng không có thiện ác, tâm địa thật sự thanh tịnh – bình đẳng – giác, họ mới có năng lực trí tuệ cao độ, phương tiện thiện xảo giải quyết tất cả những mối bất đồng trong xã hội cho chúng ta. Chúng ta nghe xong câu chuyện này, thử xem lời giáo huấn của Phật trong kinh điển, nếu khế nhập được, nếu thể hội được, nếu đem những đạo lý giáo dục này áp dụng vào trong đời sống của mình thì chúng ta mới thật sự được thọ dụng. Chúng ta hiểu rõ rồi, tất cả mọi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều không phải phát sinh từ trên sự tướng. Hoa Nghiêm nói: “Lý sự vô ngại, sự sự vô ngại”. Phát sinh từ chỗ nào vậy? Là sinh ra từ trong vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính bản thân mỗi người. Chỉ cần bạn đem vọng tưởng, phân biệt, chấp trước buông hết, thiên hạ vốn vô sự, làm gì mà không thái bình?
Cái khó buông nhất của tất cả chúng sanh là “ngã chấp”, tôi cho rằng thế này, thế nọ, tôi cảm thấy thế này, thế nọ. Đây chính là gốc bệnh của bạn, là gốc bệnh sinh tử của bạn, là gốc bệnh sáu cõi luân hồi của bạn. Chư Phật Bồ Tát ứng hóa trong thế gian, giáo hóa tất cả chúng sanh hoàn toàn không có mình, hoàn toàn thay người khác giải quyết vấn đề, hay nói cách khác, các Ngài không hề xen tạp một mảy may ý kiến của mình. Cho nên, chúng ta đối với các Ngài tâm phục khẩu phục. Những gì mà các Ngài nói ra, dùng cách nói hiện nay của chúng ta mà nói, đều là lời trong tâm của chính chúng ta. Lời nói ra là lời trong tâm của chính chúng ta, không phải người ngoài, chúng ta làm sao mà không phục? Bạn ngày nay đối với lời giáo huấn của Phật vẫn còn xa lạ, đó là bạn chưa thể thể hội được. Nếu bạn thể hội được thì bạn sẽ hoan hỷ, bạn sẽ liền tin nhận, bạn liền phụng hành ngay. Phật nói cho chúng ta biết, tất cả chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng Như Lai. Hay nói cách khác, trí tuệ của Phật thật sự vô lượng vô biên. Các bạn đồng học hiện nay ở đây học giảng kinh, mỗi một tuần giảng một lần, giảng một giờ, còn phải bỏ công sức mấy ngày để chuẩn bị. Thử hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật năm đó vì tất cả chúng sanh giảng kinh thuyết pháp có chuẩn bị hay không? Không hề. Tại sao vậy? Có chuẩn bị thì bộ kinh này là ta nói, không có chuẩn bị thì bộ kinh này không phải ta nói. Cho nên, Thích Ca Mâu Ni Phật cả đời chưa từng giảng kinh. Đây là lời do chính Phật nói. Nếu như có người nói Phật giảng kinh là báng Phật. Lời nói này phải nói thế nào đây? Những điều mà Phật cả đời nói ra, tuyệt đối không có một chữ nào là ý của mình, cho nên Ngài không hề nói. Những điều mà Ngài nói là gì vậy? Là sự phản ứng trong tâm lý của chúng sanh. Cho nên nói: “Nói mà không nói, không nói mà nói”.
Chúng ta phải làm thế nào mới có thể thể nhập cảnh giới? Chúng ta phải nghe như không nghe, không nghe mà nghe thì chúng ta đã thể hội Thích Ca Mâu Ni Phật rồi, là có thể hiểu được ý của Ngài. Từ chỗ này bắt tay làm, chúng ta mới có thể vào cửa được, đích thực khai trí tuệ, đích thực là siêu phàm nhập thánh. Cho nên, nền giáo dục của Phật là vì căn tánh chúng sanh không giống nhau. Đối với người thiện căn ít thì chỉ dạy họ đoạn ác tu thiện, nói rõ nhân duyên, quả báo của thiện ác. Pháp này là pháp nhỏ, tuy nó là pháp nhỏ, không thể giúp bạn thoát khỏi lục đạo luân hồi, nhưng thật sự giúp bạn không bị đọa ba đường ác, bạn có thể được phước báo trời người. Các bạn nghe giảng phải biết nghe, đặc biệt là pháp sư học giảng kinh. Tôi không nói giàu sang trời người, tôi nói phước báo trời người. Ở trong phước báo có thể bao gồm giàu sang, nhưng ở trong giàu sang không thể bao gồm phước báo. Bạn nghe xong có lẽ có nghi vấn, bạn thử đi hỏi những nhà người giàu sang kia, ở thế gian người làm quan lớn, người làm tổng thống, những xí nghiệp gia lớn đại phát tài, bạn thử đi hỏi họ, anh có phước báo hay không? Họ sẽ lắc đầu: “Tôi không có phước báo, tôi quá khổ rồi”. Người có phước báo thì luôn tự tại vui vẻ, còn họ tuy phú quí nhưng không vui. Người phước báo thì cả đời vui vẻ. Những lời này đều phải nghe thật tỉ mỉ, thể hội cho thật kỹ.
Phật dạy chúng ta làm Phật. Cổ nhân Trung Quốc chúng ta dạy học, vào thời xưa người đi học không phải cầu công danh phú quí. Mục đích đi học của người xưa là chí tại thánh hiền, không phải chí tại công danh phú quí. Chí tại thánh hiền tức là chí ở làm người hiểu biết, không muốn làm người hồ đồ. Người hồ đồ là phàm phu, người hiểu biết là thánh hiền. Mục tiêu của giáo dục trước đây không giống như chúng ta hiện nay. Hiện nay đi học, những học trò trẻ tuổi này đi chọn khoa ngành, điều kiện tuyển chọn hàng đầu là gì vậy? Là học ngành này có kiếm tiền được không, khoa ngành này có dễ dàng tìm được công việc không, hầu như chẳng liên quan gì với hạnh phúc của mình. Người thật sự hạnh phúc là người cả đời đọc những sách mà mình thích đọc, làm những công việc mà mình thích làm, đây là hạnh phúc đứng hàng đầu trên thế gian. Ai là người thật sự hạnh phúc vậy? Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật thật sự là đọc những sách mà mình thích đọc, làm những việc mà mình thích làm, được đại tự tại, đời sống vật chất, đời sống tinh thần cả đời Ngài một mảy may áp lực cũng không có. Bạn thấy, Ngài vui sướng biết bao! Ngài đã làm nên một tấm gương đời người hạnh phúc mỹ mãn thật sự cho chúng ta thấy. Chúng ta nhìn thấy rồi, vô cùng ngưỡng mộ, vô cùng khát khao, học tập theo Ngài.
Các bạn đồng tu đã xuất gia đang ngồi đây, trên người chúng ta cũng đã khoác áo Cà Sa, có phải thật sự học Phật không? Thật sự học Phật thì phải suy nghĩ thật nghiêm túc. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn tại thế, Ngài sống đời sống như thế nào? Ba y một bát, không lo, không nghĩ, không hề bận tâm. Chúng ta có thấy rõ hay không? Phật Thích Ca Mâu Ni cả đời không hề xây đạo tràng. Nếu như chúng ta xây đạo tràng thì thật không đúng pháp. Phật không hề làm việc này. Đạo tràng do ai làm vậy? Ở Ấn Độ, ở Trung Quốc đều do hộ pháp, do đế vương, đại thần kiến tạo. Họ kiến tạo đạo tràng, thỉnh Phật Bồ Tát đến nơi đây để giáo hóa chúng sanh. Phật là người đã xuất gia, không có nhà, tự mình xây đạo tràng chẳng phải là trở lại nhà hay sao? Chẳng phải đã làm trái với bổn nguyện của bạn hay sao? Phật Thích Ca Mâu Ni cả đời không hề đi hóa duyên ở người khác, không hề hỏi người để quyên tiền. Nếu như chúng ta đi hóa duyên, quyên tiền thì không phải là đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta có nghĩ đến hay không? Không có tiền không thể làm việc, không thể làm việc là quá tốt rồi, vô sự tốt biết bao! Người thế gian thường nói: “Nhiều việc không bằng ít việc, ít việc không bằng không việc gì”. Bạn thấy, không việc gì thì vui sướng biết bao. Lẽ nào bạn còn muốn đi kiếm chuyện? Vô cớ sinh sự là bạn tạo nghiệp rồi. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa còn tại thế, tuy có hơn 1.000 đệ tử thường theo học tập với Ngài, chúng ta tra hết kinh văn, Thích Ca Mâu Ni Phật có đem họ tổ chức lại hay không? Có chia ra lớp lớn, lớp trung, lớp tiểu hay không? Người nào là trưởng lớp tiểu, người nào là trưởng lớp trung, người nào là trưởng lớp đại? Không hề có. Chứng tỏ nếu số người nhiều đi nữa, Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không hề tổ chức, mọi người đều tự phát tự nguyện, người người ham học, người người ham đức, ham thiện, chỉ tuân thủ theo lời giáo giới “Lục hòa kính” của Thích Ca Mâu Ni Phật, cho nên ở trong tăng đoàn mọi người bình đẳng, tuyệt đối không hề bảo người nọ kiểm tra người kia, người kia điều khiển người nọ, điều này ở trong cửa Phật chưa từng thấy. Phật pháp là thuần túy giáo dục, thuần túy dạy học, tuyệt đối không nhiều chuyện, chúng ta phải nhận thức rõ ràng.
Phật pháp muốn lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, lợi ích thế giới, phải dựa vào ai vậy? Hộ pháp. Đây là điều tôi thường nói, công đức của hộ pháp hơn hẳn hoằng pháp. Người hoằng pháp là giáo viên, là thầy giáo, còn người hộ pháp là hiệu trưởng. Nếu họ không lập lên trường học, giáo viên có tốt đi nữa cũng không có cơ hội đi dạy người ta. Nhất định phải có người lập trường học. Trường này mời bạn đến để dạy học, bạn mới có thể giúp đỡ những học sinh này. Cho nên Phật pháp vĩnh viễn đứng ở thế bị động, chứ không phải đứng ở thế chủ động. Chủ động là gì vậy? Chủ động là vô cớ kiếm chuyện, không có chuyện, bạn đi kiếm chuyện.
Tôi đến nơi đây là bị cư sĩ Lý Mộc Nguyên tìm đến, không thể từ chối. Bạn cho rằng tôi muốn giảng kinh ở nơi đây à? Rất vất vả. Tôi vốn dĩ nghĩ là sau khi Viện trưởng Hàn vãng sanh thì tôi vô sự rồi. Tôi chuẩn bị đến Úc Châu tự mình lập một thảo am nhỏ để tiến tu. Khi ẩn cư được, bạn thấy tự tại biết bao! Úc châu chắc có lẽ có đồng tu đã đến rồi. Quả thật, trước đây Viện trưởng Hàn tán thán, đây là thiên đường của nhân gian, môi trường tự nhiên chưa bị phá hoại, đất rộng người thưa. Diện tích đất của nó rộng gần bằng so với Trung Quốc, so với nước Mỹ, nhưng dân số chỉ có 17 triệu người. Người quá ít, giữa con người với nhau vô cùng hòa thuận, mọi người nhìn thấy nhau không phân chủng tộc, đều tràn đầy thân thiết. Thật là một nơi tốt! Tôi cũng muốn đến nơi đó để ẩn cư. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên đích thân mời, đó là hộ pháp, ông mời như vậy, tôi không thể không đến. Tôi không đến, không những có lỗi với ông mà còn có lỗi với chư Phật Bồ Tát. Đây là cái mà trong “Lễ Ký” gọi là “An an nhi năng thiên”. Tôi có môi trường sinh hoạt an ổn thân tâm, nhưng phải xả bỏ hết để đến nơi đây cùng nhau học tập Phật pháp với các vị.
Từ đó cho thấy, thế gian không có người hộ pháp thì chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật không thể trụ thế, nền giáo học của nhà Phật sẽ không thể đẩy mạnh. Trong hư không pháp giới, nếu như không có chư Phật Như Lai hộ trì Phật A Di Đà, thì pháp môn niệm Phật thù thắng, hoàn cảnh tu học hoàn bị nhất của thế giới Cực Lạc cũng không có người biết đến, 48 nguyện của Phật A Di Đà toàn bộ bị tan vỡ. Ngài ngày nay thật sự thành tựu, quả thật mà nói, là dựa vào một nguyện này. Tất cả chư Phật Như Lai đều là hộ pháp của Phật A Di Đà, tất cả chư Phật Như Lai, không có vị nào mà không tán thán Phật A Di Đà. Kinh văn phía sau bản kinh nói rất hay, Thích Ca Mâu Ni Phật đại biểu tất cả Như Lai, tán thán Phật A Di Đà là “Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương”. Tán thán đến cực điểm! Chúng ta ngày nay tu học pháp môn này, làm đệ tử Di Đà, bạn nên biết là có biết bao nhiêu người đố kị, biết bao nhiêu người phá hoại, biết bao người gây phiền phức. Bạn biết rồi thì không nên bận tâm, biết rồi sẽ không bị họ phá hoại nữa. Những người phá hoại là những người nào vậy? Có hai loại người.
Một loại là con cháu của ma, là ma tử ma tôn, đây là ở trong kinh Thích Ca Mâu Ni Phật nói cho chúng ta biết. Năm xưa khi Phật Đà còn tại thế, vua ma Ba Tuần cũng thường hay nghe kinh thuyết pháp. Phật giảng kinh 49 năm xong, ma vương yêu cầu Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ sớm hơn một thời gian, nói với Phật là Ngài giảng kinh đủ nhiều rồi, được rồi, không nên giảng thêm nữa. Phật rất từ bi, gật đầu: “Được, ta đồng ý”. Phật đều hằng thuận chúng sanh, ma đến khải thỉnh cũng hằng thuận. Ma đối với Phật pháp rất đố kỵ. Ba Tuần nói, ta phải nghĩ cách phá hoại Phật pháp. Thế Tôn mỉm cười, Pháp này của ta là chánh pháp, là từ trong tâm tánh của tất cả chúng sanh lưu xuất ra, bất kỳ người nào cũng không thể phá hoại được. Ba Tuần bèn nói: “Đợi khi pháp vận của ông đến thời kỳ Mạt Pháp, ta sai ma con, ma cháu của ta thảy đều xuất gia, khoác áo Cà Sa để diệt Phật pháp của ông”. Thời kỳ Chánh Pháp và Tượng Pháp thì chúng sanh thiện căn sâu dày, hay nói cách khác, họ có năng lực biện biệt chân vọng, tà chánh, nên ma không thể lợi dụng. Thời kỳ Mạt Pháp căn tánh chúng sanh dần dần ngày càng kém, không có năng lực biện biệt đúng sai, không có năng lực biện biệt thiện ác, đương nhiên càng không có năng lực biện biệt thật giả. Thích Ca Mâu Ni Phật nghe xong, chẳng nói một câu nào, chỉ biết rơi lệ. Thái độ này của Phật biểu thị ý gì vậy? Thương xót cho tất cả chúng sanh vô tri thời Mạt Pháp. Cho nên, kẻ làm chướng ngại cho pháp môn này là ma con, ma cháu. Chúng ta hiểu rất rõ, chúng ta gặp rồi thì nên đối với họ kính mà không gần. “Anh làm sao chướng ngại được tôi, chỉ cần tín tâm của tôi bất động thì anh đành chịu thôi. Tôi không thể mắc bẫy của anh, không bị anh gạt được. Anh đến khuyên tôi học theo pháp môn này, học theo pháp môn nọ, pháp môn này có thần thông, pháp môn kia có cảm ứng, hết thảy tôi đều mặc kệ”, ma không thể lợi dụng được.
Loại phá hoại thứ hai đó là vô tri, người thật sự không có thiện căn, dạng người ba phải. Loại người này ở thế gian cũng không ít. Chúng ta cũng nên thương xót họ, không nên quở trách họ. Tại sao vậy? Tôi thường hay nói, nếu như truy cứu nguyên nhân gốc rễ của nó, đều là do bản thân chúng ta làm chưa tốt, chúng ta chưa làm tròn trách nhiệm của một người đệ tử, cho nên mới có những hiện tượng này xuất hiện. Xã hội đại chúng đối với Phật giáo có những sự hiểu lầm này, hiểu lầm rất sâu, nguyên nhân gì vậy? Chúng ta không có thường xuyên giảng kinh thuyết pháp, chưa đem những nội dung chân chánh của Phật giáo nói ra để mọi người biết, cho nên người ta nói chúng ta mê tín, chúng ta làm sao trách người ta được? Quay lại thử suy nghĩ xem bản thân mình, bản thân chúng ta chưa có y giáo phụng hành, chưa có thật sự làm. Người ta đối với chúng ta có biết bao nhiêu lời phê bình không tốt, lời của họ cũng không phải là sai. Cho nên, chúng ta sau khi nghe rồi phải soi lại, phải kiểm điểm, phải thật sự nỗ lực sửa chữa lỗi lầm.
Đạo tràng Cư Sĩ Lâm này, mọi người hiện nay nhìn thấy đều rất hoan hỷ, dường như pháp duyên rất thù thắng. Chúng tôi ở đây cũng nói cho các đạo tràng khác biết, nói cho các pháp sư khác biết, pháp duyên của các anh cũng rất thù thắng, nhưng các anh không chịu làm. Làm thế nào vậy? Hằng ngày giảng kinh, hằng ngày niệm Phật thì pháp duyên chẳng phải thù thắng rồi sao? Bạn có pháp duyên mà bản thân bạn không chịu kết, thế thì vô phương vậy. Đạo tràng này, hiện nay cư sĩ Lý Mộc Nguyên là phó đạo tràng, thay trưởng đạo tràng, ông không phải người chủ trì. Ông thường nói, tôi cũng thường nói, đạo tràng này hoàn toàn không phải vì một đạo tràng này của chúng ta. Nếu vì một đạo tràng này thì Phật Bồ Tát sẽ không hộ niệm, thiên long thiện thần sẽ không ủng hộ. Đạo tràng này vì ai mà dựng nên vậy? Là vì tất cả chúng sanh trên toàn thế giới mà lập nên đạo tràng này. Các bạn phải nghe cho rõ ràng, tôi không phải nói vì Phật giáo trên toàn thế giới. Nếu như vì Phật giáo trên toàn thế giới thì phạm vi này nhỏ rồi, mà vì tất cả chúng sanh trên toàn thế giới, cho nên đạo tràng này thù thắng. Chúng ta đang làm. Chúng ta không phân chủng tộc, không phân tôn giáo, đây chính là đạo tràng vì chúng sanh trên toàn thế giới, thật sự vì sự ổn định hòa bình của thế giới, là phúc lợi đích thực. Vì tất cả chúng sanh trên toàn thế giới, hoàn toàn không vì cá nhân, hoàn toàn không vì đoàn thể nhỏ, vậy mới như pháp. Phật dạy chúng ta như thế nào, chúng ta làm như thế ấy.
Chúng ta vì toàn thế giới, quả thật mà nói tâm lượng vẫn còn quá nhỏ. Tâm lượng của chư Phật Bồ Tát là hư không pháp giới. Chúng ta mới vì một tinh cầu, bạn thấy, nhỏ đáng thương cỡ nào! Nhưng việc chúng ta hôm nay là muốn làm đến toàn thế giới, tâm lượng không khác gì so với chư Phật Như Lai, quả thật tấm lòng vì tất cả chúng sanh hư không pháp giới. Việc trước mắt, chúng ta phải làm đến toàn thế giới. Vì chúng sanh trên toàn thế giới làm việc gì vậy? Phá mê khai ngộ. Quí vị phải nhớ kỹ, Phật giúp đỡ chúng sanh mục đích chủ yếu là phá mê khai ngộ, giúp đỡ chúng sanh hiểu rõ chân tướng vũ trụ nhân sinh. Chân tướng hiểu rõ rồi thì tất cả mọi tai nạn đều không còn nữa, thiên tai nhân họa đều không còn nữa; bản thân nghiệp chướng tiêu trừ, tâm địa mát mẻ, tự tại; quá khứ, hiện tại, vị lai, nơi này nơi khác bạn cũng dần dần ngày càng thông đạt sáng tỏ. Đây là Phật giáo Đại thừa.
Công đức của hộ pháp hơn hẳn công đức hoằng pháp. Tôi là một giáo viên, là người dạy học. Cư sĩ Lý là hiệu trưởng. Ông lập nên trường học này, ông làm hiệu trưởng, mời tôi đến dạy học. Cho nên, có rất nhiều đồng tu muốn đến nơi đây để tham gia lớp bồi dưỡng, muốn đến đây để niệm Phật, họ thường hay viết thư, gọi điện thoại tìm tôi. Tôi bảo, bạn tìm sai người rồi! Bạn nên tìm ông chủ mới đúng, tìm người làm thuê làm gì. Người làm thuê không thể làm chủ, tôi không làm chủ nổi, nên tìm ông ấy. Ông ấy có việc, tôi không có việc. Tôi đến giờ lại lên lớp. Quí vị bảo tôi khi nào lên lớp thì tôi lên lớp khi ấy; bảo tôi lên lớp ở đâu, thì tôi lên lớp ở đó. Tôi là người bị động, không phải chủ động. Quí vị bảo thứ hai kinh Hoa Nghiêm phải giảng ở đâu, tôi nói được. Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Lại có một số đồng tu đến nói với tôi: “Pháp sư! Thầy làm như vậy có mệt quá hay không?”. Tôi trả lời: “Vâng, quá mệt rồi! Tốt nhất là bảo tôi đừng giảng kinh nữa thì tôi hết mệt ngay”. Đến nơi đây để giảng thì có cái tiện lợi của việc giảng ở đây, có biết bao nhiêu đồng tu đều có thể ở một chỗ cùng nhau học tập. Đạo tràng Tịnh Tông Học Hội quá nhỏ, phòng học của chúng ta chỉ có thể chứa đồng tu lớp bồi dưỡng, cho nên có rất nhiều đồng tu đến niệm Phật đường bên cạnh nghe kinh, chúng ta lợi dụng màn ảnh rộng, cho nên ở nơi này cũng tốt. Chín giờ rưỡi, chúng ta đến nơi đây, giảng kinh xong thì ở bên này dùng bữa cơm trưa rồi trở về nghỉ ngơi đều được. Quí vị bảo thế nào, tôi tùy hỷ thế ấy. Cả đời tôi sẽ không thay đổi nguyên tắc này, đây là Phật Bồ Tát dạy cho tôi. Cho nên, tùy thuận theo lời giáo huấn của Phật Bồ Tát sẽ sống một cuộc đời hạnh phúc nhất, tùy thuận theo tri kiến của mình thì bạn sẽ sống một đời rất đau khổ, bạn phiền não nhiều.
Mỗi tháng tôi đều đến Hồng Kông để giảng kinh, rất nhiều đồng tu nhìn thấy, họ bảo: “Pháp sư! Thầy mỗi ngày một trẻ ra”. Tôi nói: “Thật vậy sao?”. Quả thật mà nói, tôi đã già lắm rồi, không còn trẻ nữa, nhưng dáng vẻ lão suy tương đối chậm lại một chút. Đây là nguyên nhân gì vậy? Ở trong ngạn ngữ thế gian nói rất hay: “Lo nghĩ khiến người già”. Con người tại sao bị lão hóa vậy? Lo nghĩ quá nhiều, phiền não quá nhiều thì sẽ già. Tại sao không đem những thứ này vứt đi để cho tâm địa mình được thanh tịnh tự tại? Không có lo nghĩ, không có phiền não, không có bận tâm, bạn sẽ thật sự vui sướng. Nhưng người giảng kinh, người làm giáo viên như chúng tôi thì được, còn người làm ông chủ thì không được. Người làm ông chủ nếu như đem việc này vứt đi thì việc đó không có người làm rồi. Vì vậy người làm ông chủ là Phật, Bồ Tát, không phải phàm phu, chúng tôi đối với họ vô cùng tôn kính. Do đó tôi thường nói, công đức của hộ pháp hơn hẳn hoằng pháp. Đây là lời chân thật, không có hộ pháp thì không có Phật pháp trụ thế. Người tu hành ai nấy đều ở trong núi sâu, tự mình thành tựu rồi, đối với xã hội, đối với chúng sanh không có cách gì tạo nên cống hiến. Phật pháp nếu có thể phổ cập ở thế gian này, để thế gian này có được lợi ích chân thật thì nhất định phải dựa vào Bồ Tát hộ pháp. Những người hộ pháp này thật sự hiểu được Phật pháp, biết được sự thù thắng của Phật pháp, phát đại từ đại bi làm lợi ích tất cả chúng sanh.
Hôm nay, trong hội này của chúng ta có năm vị cư sĩ từ núi Thiên Mục – Triết Giang đến đây, họ vừa mới tranh thủ một chút thời gian nói cho tôi biết tình hình tu học của các đồng tu tại núi Thiên Mục. Sau khi nghe xong, tôi vô cùng hoan hỷ. Đây là Bồ Tát thật, họ không khác gì so với cư sĩ Lý ở nơi đây. Khu vực Đông Nam Á này có cư sĩ Lý Bồ Tát, thì ở nơi đây không bị kiếp nạn. Hôm nay tôi nghe được rồi, núi Thiên Mục có những vị Bồ Tát này, thì bên đó sẽ không bị tai nạn. Chúng tôi đối với việc này tin tưởng rất sâu, niềm tin của chúng tôi không phải tùy tiện nói ra. Tôi học Phật đã 47 năm rồi, ở trên bục giảng đã giảng 40 năm, tâm đắc tu học trong 40 năm của tôi thật sự thể hội, khẳng định sự thật này, quyết không phải là giả dối. Người nơi đó có phước. Khu vực này có rất nhiều Bồ Tát đang thầm lặng làm việc, còn có những vị tôi vẫn chưa nghe thấy, những vị tôi nghe nói quả thật có không ít, đang thật sự nỗ lực làm. Hiện nay chúng ta thiếu nhân tài giảng kinh thuyết pháp. Quí vị pháp sư trẻ tuổi, các bạn đang ngồi đây phải cố gắng nỗ lực, hãy mau mau ra giảng kinh. Những đạo tràng này của họ đều đã xây dựng rồi, có Bồ Tát đang hộ trì rồi, các bạn hãy mau đi giảng kinh. Giảng kinh vĩnh viễn không được gián đoạn, thế nhưng bạn lại sợ mình giảng không hay. Sự việc này chỉ cần bạn thật sự phát tâm thì sẽ có Phật Bồ Tát phù hộ cho bạn, có tam bảo gia trì, chỉ cần bạn nghiêm túc nỗ lực chuẩn bị, không thể không chuẩn bị. Chuẩn bị là gì vậy? Chứng tỏ sự chân thành của chúng ta. Nhưng khi lên bục để giảng, có thể những nội dung bạn chuẩn bị hoàn toàn không dùng được. Uy lực Tam bảo gia trì, bạn có thể nói ra diệu pháp, nói ra những điều mà chính bạn cũng không dám tin. Sự việc này thường hay xảy ra.
Các bạn thấy, “Viên Giác Kinh Thân Văn Ký”, “Viên Giác Kinh Giảng Nghĩa” là tài liệu chuẩn bị giảng kinh Viên Giác của lão Hòa thượng Đế Nhàn. Ngài chuẩn bị nghiêm túc như vậy. “Thân Văn Ký” là Giang Vị Nông, Tưởng Duy Kiều, mấy vị cư sĩ nghe giảng, ghi lại. Sau khi ghi lại, ngày thứ hai họ chỉnh lý trở lại, đưa cho lão Hòa thượng xem. Lão Hòa thượng xem xong thì vô cùng kinh ngạc, hỏi họ: “Những điều mà các anh ghi chép đây là tôi giảng sao?”. Họ nói: “Vâng, là do lão Hòa thượng giảng đấy ạ!”. “Tôi làm sao có thể giảng hay như vậy được?”, lão Hòa thượng nói. Đây là ở trên bục giảng có uy lực tam bảo gia trì. Chỉ cần bạn có tâm chân thành, nhưng không thể không chuẩn bị, không chuẩn bị thì không được.
Tôi giảng 40 năm rồi mà vẫn phải chuẩn bị trước; hằng ngày phải đọc kinh. Nhưng tôi nói cho quí vị biết, tôi chuẩn bị một ngày thì có thể giảng ba tháng, cho nên quý vị nhìn thấy tôi rất thanh thản, còn dạo chơi khắp nơi, bay đi khắp nơi. Tôi chuẩn bị một ngày là giảng ba tháng, nhưng tôi hằng ngày đọc kinh, không có ngày nào không đọc kinh. Khi tôi lên bục giảng, có phải tôi giảng nội dung mà tôi đã chuẩn bị không? Xin thưa với quí vị, hoàn toàn không có. Cho nên sau khi tôi giảng xong, nếu bạn hỏi tôi đã giảng những gì, tôi xin thưa với bạn, nói thật sự là giảng những gì tôi cũng không biết nữa! May mà các bạn hiện nay có ghi âm, ghi lại những gì tôi đã giảng. Bạn ghi lại, bảo tôi nghe, tôi cũng không muốn nghe nữa. Chúng tôi đều dựa vào ông chủ, ông chủ là Phật A Di Đà (đây chính là lời của cư sĩ Lý Mộc Nguyên). Nhất định phải được Phật lực gia trì, được Phật lực bảo hộ. Bản thân chúng tôi là người làm công quả cho Phật A Di Đà, người làm phụ công. Xây dựng đạo tràng ở đây, thành tựu của đạo tràng, thảy đều dựa vào Phật lực. Đạo tràng này, từ lúc tôi đến đây giảng kinh, cư sĩ Lý hiểu rõ một nguyên tắc là không hóa duyên, không hỏi người xin tiền. Tiền nhiều làm việc nhiều, tiền ít làm việc ít, không tiền thì không làm. Tâm địa thanh tịnh!
Tâm thanh tịnh có thể sanh trí tuệ. Cho nên Phật là tấm gương tốt của chúng ta, phải y theo lời giáo huấn của Phật, phải học tập theo Phật. Bản thân chúng ta thật sự phát tâm, thật sự chịu làm, vì xã hội phục vụ, vì chúng sanh phục vụ, nhà Phật nói là “độ” chúng sanh. Ý nghĩa của “Độ”, dùng cách nói hiện nay mà nói chính là phục vụ, phục vụ vô điều kiện, hiến dâng vô tư. Chỉ cần bạn thật sự chịu làm như vậy, thật sự có tâm này thì sẽ cảm ứng đạo giao với chư Phật Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì tâm của chư Phật Bồ Tát chính là tâm này. Chúng ta phát tâm là cùng một tâm với chư Phật Bồ Tát thì Phật Bồ Tát sao mà không hộ niệm chứ? Đâu có lý nào mà các Ngài không quan tâm. Người thế gian không thể biện biệt tà chánh, không thể biện biệt thiện ác, thậm chí là ngay cả lợi hại cũng không thể biện biệt, nhưng thần hộ pháp có năng lực biện biệt, thiên long thiện thần có năng lực biện biệt. Tâm của bạn thiện, việc làm thiện, lời nói thiện thì thần hộ pháp nhất định ủng hộ. Người cùng tâm này, tâm cùng lý này. Chúng ta thấy người khác làm một việc tốt, chúng ta cũng thấy hoan hỷ, chúng ta cũng toàn tâm toàn lực tự động đi giúp đỡ họ, thành tựu thiện tâm của họ, thành tựu thiện nghiệp của người.
Trong tất cả chư Phật Như Lai, Phật A Di Đà phát thiện nguyện viên mãn cùng tột, hơn hẳn tất cả chư Phật Như Lai. Chư Phật Như Lai trí tuệ bình đẳng, năng lực bình đẳng mà phát nguyện không giống nhau. Nguyện mà Phật A Di Đà phát, tất cả chư Phật Như Lai xưa nay chưa hề phát ra. Sau khi Ngài phát nguyện rồi, đúng ngay bổn hoài của chư Phật Như Lai. Chư Phật không hề nghĩ ra, Ngài nghĩ ra rồi, cho nên không có vị Phật nào không tán thán, không có vị Phật nào không ủng hộ. Phật A Di Đà lại có một nguyện này, tất cả chư Phật đâu có lý nào mà không thành tựu đại nguyện của Phật A Di Đà chứ? Nguyện này là gì vậy? Nguyện này chính là mười phương tất cả chư Phật Như Lai trong thế giới mười phương thay Phật A Di Đà chiêu sinh, thay Phật A Di Đà gửi gắm giới thiệu. Cho nên, tất cả chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới giảng kinh thuyết pháp, chính là Thiện Đạo Đại sư đã nói câu: “Duy thuyết Di Đà bản nguyện hải”. Bất kể nói bao nhiêu kinh luận, bao nhiêu pháp môn, đến cuối cùng thảy đều quay về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Cho nên chúng ta nhìn thấy đồng tu các tông phái khác nhau, họ học Thiền cũng tốt, học Mật cũng tốt, học Giáo cũng tốt, học giới luật cũng tốt, chúng ta nhìn thấy hoan hỷ tán thán, dứt khoát không được phỉ báng. Điểm này các đồng tu chúng ta phải nhớ kỹ.
Tại sao không được phỉ báng vậy? Phỉ báng thì bạn không thể vãng sanh. Tại sao vậy? Những pháp môn đó, bạn thử hỏi có phải là Phật nói hay không? Đều là do Phật nói, Thiền là do Phật nói, Mật cũng là do Phật dạy. Nếu bạn phỉ báng, há chẳng phải báng Phật sao? Pháp do Phật nói, nếu bạn phỉ báng là báng pháp. Người dựa theo những phương pháp đó tu học, đó là tăng. Bạn báng Phật, báng pháp, báng tăng thì không thể vãng sanh. Nguyện thứ mười tám, trong nguyện văn sau cùng nói: “Duy trừ ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp”. Bạn phỉ báng chánh pháp, bạn tu như thế nào bạn cũng không thể vãng sanh. Cho nên người tu Tịnh Độ chúng ta, người ta phỉ báng chúng ta, tai chúng ta có thể nghe, mà miệng không được nói. Chúng ta dùng thái độ gì đối với họ vậy? Cung kính họ, tán thán họ, dứt khoát không được phỉ báng họ. Bạn hiểu hiện được như thế này là bạn cao hơn họ. Nhớ kỹ là hai người cãi nhau là do trình độ bằng nhau, còn một người cao, một người thấp thì không thể cãi được. Tại sao vậy? Người cao sẽ nhường người thấp, họ làm sao có thể cãi được. Hai người đánh nhau thì trình độ cũng ngang nhau. Cho nên khi chúng tôi đi học ở trong trường học, các bạn học đánh nhau, cãi nhau thì thầy phân xử hai người cùng bị phạt quỳ cả. Thời ấy chúng tôi ở trong trường học, đối với cách xử phạt này của thầy trong lòng không phục. Rõ ràng là mình có lý, họ không có lý, tại sao mình cũng bị phạt quỳ? Đến khi học Phật sau này tôi mới chợt hiểu ra, hóa ra cao bằng nhau. Khi bạn thật sự cao hơn, bạn sẽ không cãi nữa. Cho nên, người có trí tuệ sẽ nhường người không có trí tuệ. Ngay cả thánh nhân thế gian cũng dạy chúng ta lễ nhượng, nhẫn nhượng, khiêm nhượng. Nhượng là tánh đức. Chư Phật Bồ Tát chung sống với tất cả chúng sanh, không có vị nào không nhượng. Chư Phật Bồ Tát là khiêm nhượng. Chúng ta không thể không khiêm được, chúng ta phải nhẫn, nhẫn nhượng. Khiêm là công phu đã thành tựu rồi, đó là thuộc về khiêm nhượng. Chúng ta hiện nay ở trong những cái đúng đúng sai sai này luyện tài, luyện công phu, chính là luyện nhẫn nhượng. Không thể nhẫn cũng phải nhẫn, không thể nhượng cũng phải nhượng. Thật sự có trí tuệ, thông quyền, đạt lý thì chúng ta mới có thể hộ trì Phật pháp tốt được, mới có thể khiến chánh pháp trụ lâu ở thế gian. Chánh pháp trụ lâu ở thế gian thì tất cả chúng sanh mới có phước.
Chúng ta ngày nay rất may mắn, những nhà khoa học đã phát minh rất nhiều khoa học kỹ thuật cao. Chúng ta nhất định phải hiểu được tính năng của những kỹ thuật này, hết sức lợi dụng nó. Chúng ta ở chỗ này, mỗi một lần diễn giảng đều thông qua mạng internet truyền bá đến toàn thế giới. Có một vị đồng tu ngoại quốc gởi một bản fax cho tôi, ông đặc biệt nhắc nhở tôi, ông nói: “Pháp sư à, thầy giảng kinh không nên chỉ chú ý đến thính chúng ở trong giảng đường của thầy. Người nghe giảng ở trên mạng internet chí ít cũng có một triệu người”. Lời nhắc nhở này rất hay. Cho nên chúng ta không những phải chú ý đại chúng trước mắt, mà còn phải chú ý những đại chúng thu nghe ở trên mạng internet này nữa.
Ý nghĩa quan trọng nhất của đoạn nguyện văn này chính là thỉnh cầu chư Phật Như Lai hộ pháp. Chúng ta hiểu được, Phật A Di Đà vẫn phải nhờ tất cả chư Phật hộ trì Ngài. Chúng ta ngày nay phát nguyện học Phật, đặc biệt là phát nguyện cả đời dấn thân vào công tác giáo dục, làm sao có thể không nhờ hộ pháp? Hộ pháp đến đâu mà tìm vậy? Nhờ người sẽ có phiền não. Người ta không đồng ý, phiền não của bạn xuất hiện ngay. Năm xưa khi tôi mới bắt đầu học Phật, gần gũi Chương Gia Đại sư. Đại sư dạy tôi. Tôi nói với Đại sư: “Sự thù thắng của Phật pháp, cái hay của Phật pháp con đã hiểu rồi. Con hiểu được, con phải có nghĩa vụ, có trách nhiệm phải đem sự việc này làm thật tốt. Thật sự muốn làm sự việc này, nhất định phải đem công việc của mình bỏ hết, chuyên tâm vào công việc này. Đây chính là đi trên con đường xuất gia này”. Đại sư gật đầu, nói:“Được!”. Ngài vô cùng tán thán, nhưng Ngài nói cho tôi biết: “Anh không nên đi tìm thầy thế độ. Anh đi tìm một pháp sư thế độ cho anh, nếu pháp sư đó không đồng ý, anh có sinh phiền não hay không?”. Tôi nói: “Đương nhiên sẽ sinh phiền não. Vậy con phải làm sao?”. Thầy dạy tôi cầu Phật. Cho nên, tôi xuất gia là cầu Phật, Phật thay tôi tìm một vị sư phụ. Vị sư phụ này như thế nào vậy? Đến khuyên tôi xuất gia, không phải khuyên một lần, khuyên một lần sợ không thành tâm, có lẽ trong vòng nửa tháng, thầy phái người đến thư viện Từ Quang chín lần. Vào lúc đó tôi học kinh giáo với thầy Lý. Tôi thấy tâm của thầy rất thành khẩn nên tôi nhận lời. Lời của Chương Gia Đại sư dạy tôi đã thành hiện thực rồi. Cho nên, tôi xuất gia là có điều kiện. Vì xuất gia ở chùa chiềng, chùa chiềng đều là kinh sám, Phật sự. Điều kiện của tôi là dứt khoát không làm kinh sám, Phật sự. Tôi xuất gia muốn học kinh giáo, muốn giảng kinh. Ông có thể giúp đỡ tôi, tôi liền có thể nhận lời ông; ông không giúp đỡ tôi, tôi không làm, cho nên chúng tôi nói điều kiện với nhau. Tôi xuất gia, trong túi không có một xu, tôi cũng không hỏi người xin tiền. Mỗi một tháng tôi phải đến Đài Trung ở một tuần, gần gũi thầy Lý, lộ phí đi lại thường trụ phải cho tôi. Tôi đưa ra đến mấy điều kiện, thảy đều được đáp ứng cả. Cho nên chúng ta cầu hộ pháp nên cầu ở Phật. Phật sẽ tìm thần hộ pháp đến giúp đỡ chúng ta.
Tôi đến nơi đây không hề cầu hộ pháp Lý Mộc Nguyên, là do ông đến tìm tôi. Tôi tìm ông sẽ khó ngay. Tôi tìm ông, ông không đồng ý, bạn nói thử, cái mặt này của tôi, tôi để ở đâu? Ông tìm tôi, tôi còn phải xem thật kỹ ông có thành tâm hay không? Ông có thật sự như pháp hay không? Điều này chúng ta phải chú ý. Tại sao vậy? Có một số người hộ pháp có mục đích, đem chúng ta làm cây hái ra tiền, để chúng ta thay họ kiếm tiền, thế chúng ta chẳng phải bị người ta lợi dụng sao? Cho nên quan sát họ thật kỹ, họ thật sự không phải vì đạo tràng này, họ làm là vì toàn thế giới, điều này chúng ta đáng nên đến, quyết định phải đến giúp đỡ họ. Nếu như họ vì muốn thịnh vượng đạo tràng này, vì khu vực Singapore này thì tôi đã đi từ sớm rồi. Người ta vì chúng sanh trên toàn thế giới, cái này rất khó gặp, rất hiếm có, đi khắp hết thế giới tìm người hộ pháp có tâm lượng chân thành như thế này chúng ta tìm không ra. Con người quý tri kỷ. Người thế gian đều nói đạo nghĩa, nói tình nghĩa, chúng ta đây là sự kết hợp của đạo nghĩa, đồng tâm đồng đức, vì Phật pháp, vì chúng sanh làm nên sự việc tốt này. Các bạn bảo, trong truyền thuyết có tai nạn, tôi ở Singapore sẽ cùng chịu tai nạn này với Singapore. Không nên nói Singapore có tai nạn, tôi sẽ bỏ chạy đến nơi khác, không thể nói như vậy được. Học Phật rồi không thể nói, không học Phật cũng không thể nói như vậy được, dứt khoát cùng sống chết, cùng hoạn nạn với nơi này, vậy là tâm mọi người sẽ an ngay, tâm của chính chúng ta cũng an rồi.
Hôm nay tôi rời khỏi Singapore để đến Úc châu. Tôi đến Úc châu quyết định là tham gia đa nguyên văn hóa, giúp đỡ họ hòa hợp tôn giáo, hòa hợp chủng tộc. Tại sao vậy? Vì điều này có ảnh hưởng đối với toàn thế giới. Hy vọng chủng tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau đều có thể tôn kính lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác lẫn nhau, cùng tồn tại, cùng phát triển, không nên có xung đột, không nên có hiểu lầm, không nên có tranh chấp. Tôi đến Úc châu là để làm sự việc này, nếu không phải làm việc này thì tôi không đi. Ở Úc châu chúng ta có Tịnh Tông Học Hội, hiện nay ở bên đó cũng tổ chức Phật thất niệm Phật, nhưng tôi không đi. Tại sao vậy? Tịnh Tông Học Hội Úc châu không phải là vì toàn thế giới. Đạo tràng này là vì toàn thế giới. Cho nên quan điểm của chúng tôi ngày nay, phàm là vì chánh pháp trụ thế, vì tất cả chúng sanh toàn thế giới phục vụ thì tôi lập tức đi làm ngay. Vì bản thân, vì một nhóm nhỏ, chúng tôi không có thời gian nhiều như vậy, cũng không có sinh lực nhiều như vậy, có thể đi tìm người khác, tôi thì không muốn đi rồi.
Tâm lượng của Phật A Di Đà lớn biết bao! Đây là bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật của chúng ta vì chúng ta giới thiệu. Tại sao chúng ta không niệm Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật A Di Đà vậy? Niệm Phật A Di Đà là do Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy chúng ta, chúng ta nghe lời. Chúng ta là học trò tốt của Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài dạy chúng ta niệm Phật A Di Đà, chúng ta thật sự nghe lời thì Thích Ca Mâu Ni Phật hoan hỷ. Không những Thích Ca Mâu Ni Phật hoan hỷ, mà tất cả chư Phật đều hoan hỷ. Tại sao vậy? Tất cả chư Phật đều khuyên mọi người niệm Phật A Di Đà, cầu sanh Tịnh Độ, chúng ta hiểu được ý này. Đồng tu chúng ta phát tâm cả đời đi trên con đường hoằng pháp lợi sanh, nhất định phải học tập theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Danh vọng lợi dưỡng, ngũ dục lục trần quyết định không được chạm đến, triệt để buông xả. Hiện nay xã hội sung túc rồi, cúng dường nhiều rồi. Việc cúng dường này chúng ta phải đặc biệt chú ý, đặc biệt cẩn thận. Tại sao vậy? Chỉ cần một chút không lưu ý thì sự cúng dường này sẽ đem bạn chôn mất, sẽ đưa bạn đến địa ngục A Tỳ, cho nên những thứ này không được chạm đến. Trên tay cư sĩ Lý không dính tiền bạc. Chúng ta ở đây có số tiền quyên góp giao cho ông, ông không nhận, ông giao cho người khác, giao cho thủ quỹ, ông không đụng tiền bạc. Tôi tiếp nhận cúng dường của các bạn, khi tay này chạm đến thì tay kia lập tức đưa đi ngay. Phải biết rằng, tiền không phải là thứ tốt, nó hại chết người. Từ xưa đến nay, biết bao nhiêu người tu hành chỉ vì chuyện này mà bị đào thải sạch hết, đọa lạc hết. Chúng ta phải đề cao cảnh giác; danh hại người, lợi hại người. Nếu bạn không đề cao cảnh giác, chắc chắn đọa ba đường ác. Không có thì tốt! Không có thì thân này thảnh thơi. Không có tiền sẽ không dám bệnh. Tại sao vậy? Không có tiền uống thuốc, không có tiền chữa bệnh, cho nên họ sẽ không dám bệnh. Người nhiều tiền thường hay có bệnh, tiền họ có là phí chữa bệnh, họ có thể trả nổi viện phí. Những lời này không phải là lời nói đùa, ở trong đó có ẩn chứa đạo lý rất sâu. Cho nên, tất cả do Phật Bồ Tát chăm lo, đây là lúc tôi mới bắt đầu học Phật, Đại sư Chương Gia dạy tôi. Bạn thật sự phát tâm thì cả đời bạn đều do Phật, Bồ Tát chăm lo, chính mình không cần lo lắng chút nào. Tôi nghe xong, rất có thọ dụng, cái này quá tốt rồi. Phật Bồ Tát chăm lo là chăm lo thật sự, người thế gian chăm lo thì không chắc. Phật chăm lo là chăm lo thật sự, chúng ta phải thật sự tin tưởng, không mảy may hoài nghi. Tôi cả đời được thọ dụng, được Đại sư Chương Gia chỉ dạy nhiều nhất. Tôi theo thầy ba năm, thầy đã ảnh hưởng cả đời tôi. Đây đích thực là đại thiện tri thức, không phải người bình thường. Nhưng thầy dạy bảo chúng tôi, bản thân chúng tôi phải làm thật, không thể phụ lòng thầy. Chúng tôi thật sự được sự thọ dụng của Phật pháp, thật sự trong đời này sống một đời sống tự tại, hạnh phúc mỹ mãn.
Nguyện văn của nguyện này không khó hiểu, ý nghĩa sâu vô cùng. Đặc biệt là sau khi chúng ta học xong cần phải học tập như thế nào? Chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, đoạn chú giải này cũng rất hay, trích dẫn kinh văn của nguyên bản Hán dịch (đây là bản dịch sớm nhất trong năm loại bản nguyên dịch). Trong kinh văn nói như thế này: “Ngã tác Phật thời, lệnh ngã danh văn, bát phương thượng hạ, vô số Phật quốc, chư Phật các ư, đệ tử chúng trung, thán ngã công đức, quốc thổ chi thiện”. Cái ý này chẳng phải đã nói rất rõ ràng rồi sao? Khẩn cầu tất cả chư Phật Như Lai, khi giảng kinh thuyết pháp cho các đệ tử của mình thì giới thiệu thế giới Tây Phương Cực Lạc, giới thiệu Phật A Di Đà, để mọi người biết đến. Những người này sau khi nghe giới thiệu rồi, “chư thiên nhân dân, nhuyễn động chi loại”, đây là nói chúng sanh lục đạo; “Văn ngã danh tự, giai tất dũng dược, lai sanh ngã quốc”, sau khi nghe xong đều có thể sinh tâm hoan hỷ, phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Dựa vào lời giáo huấn của Phật, tu học pháp môn này. Cho nên, đem nguyên văn của bản nguyên dịch hợp chung lại xem thì ý nghĩa sẽ rất rõ ràng.
Phật còn cầu Phật. Thế gian chỉ có Phật là có thể tin được, lòng người là giả, không phải chân tâm. Con người qua lại với nhau hư tình giả ý, phải hiểu cho rõ. Hôm nay vui mừng bạn, có thể ngày mai liền đổi mặt, không tin được. Chỉ có Phật Bồ Tát là dùng chân tâm, vĩnh viễn bất biến, hoàn toàn tin được. Cho nên quí vị nhớ kỹ, mọi thứ nên cầu Phật Bồ Tát. Tất cả Phật Bồ Tát là ông chủ của chúng ta, chúng ta có lòng tin kiên định thì cảm ứng đạo giao. Bạn bảo bạn cầu Phật Bồ Tát không có cảm ứng, đó là do tâm bạn không thành, bạn đối với Phật Bồ Tát có nghi ngờ, khi bạn đang cầu khẩn, ở trong tâm bạn có xen tạp, không chuyên tâm. Vì vậy không thể nói không có cảm ứng, mà cảm ứng không rõ rệt, không nổi bật. Thuần nhất chân thành thì cảm ứng vô cùng rõ rệt, vô cùng nổi bật. Tôi cả đời này học Phật 47 năm, tôi tin sâu không nghi. Tôi ở nơi đây, nhà Phật thường nói: “Tam chuyển pháp luân”, tôi làm chứng minh với quí vị, làm chứng chuyển. Tín tâm này của tôi là có từ nơi thầy chỉ dạy, cho nên đối với thầy có lòng tin kiên định, không hoài nghi. Lời thầy dạy cho tôi, tôi y giáo phụng hành, từ trong sự nỗ lực thực hiện, chứng nghiệm giáo giới của thầy là chân thật, không phải giả dối, chúng tôi mới có được sự thọ dụng chân thật.
Hiện nay có rất nhiều đồng tu nghe kinh đã rất nhiều năm rồi, tại sao không thể làm được vậy? Do bán tín bán nghi, luôn cảm thấy Phật Bồ Tát quá hư vô, mờ nhạt, vậy đâu có đáng tin được? Vẫn cứ muốn dựa vào chính mình. Cái niệm này quá đỗi sai lầm, cái niệm này lại đem bạn kéo quay về địa vị phàm phu, vốn dĩ đã tiến lên một chút, bỗng chốc lại bị kéo về rồi. Tín tâm thật khó thiết lập. Tu học Phật pháp khó nhất là tín tâm. Tín tâm thiết lập chỉ có hai loại người. Một loại người nhà Phật nói thượng căn, lợi trí, thiện căn vô cùng sâu dày, vừa nghe họ liền tiếp nhận, họ liền có thể tin chắc, không nghi ngờ, y giáo phụng hành. Loại người này một đời chắc chắn có thành tựu. Một loại người khác là có phước. Người có phước sau khi họ nghe xong, họ cũng không nghi ngờ, thật thà thành tâm y giáo phụng hành. Loại người này cũng luôn luôn có thành tựu không thể nghĩ bàn. Người bán tín bán nghi thì vừa không có tuệ, lại không có phước, cũng tức là thiện căn phước đức đều không đầy đủ. Loại người này chiếm đa số.
Làm thế nào bồi dưỡng thiện căn phước đức đây? Nghe giảng kinh. Nghe giảng kinh là bồi dưỡng thiện căn phước đức; nghe nhiều, nghe trong thời gian dài thì dần dần sẽ giác ngộ ra. Đặc biệt những cái mà bạn đã nghe, đã học, trong đời sống của chính bạn, trong công việc, trong xử sự đối nhân tiếp vật, giao tiếp, hãy khám nghiệm, hãy chứng thực thì tín tâm của bạn sẽ tăng trưởng. Thế nhưng có rất nhiều đồng tu học Phật hằng ngày cũng đọc kinh, hằng ngày cũng niệm Phật, hằng ngày cũng đang nghiên cứu giáo lý mà không áp dụng vào trong đời sống; sinh hoạt, làm việc, giao tiếp, đem Phật pháp hoàn toàn để qua một bên khác, dường như không liên quan gì với Phật pháp, vậy thì Phật pháp này sẽ không được tí thọ dụng nào hết. Thế là sai rồi, là thật đáng tiếc! Không biết rằng Phật pháp chính là đời sống hiện thực, Phật pháp chính là dạy chúng ta làm thế nào làm tốt công việc, Phật pháp dạy chúng ta làm thế nào viên dung, hòa mục, hợp tác với tất cả đại chúng.
Phật pháp từng câu, từng chữ đều không hề tách rời đời sống chúng ta. Tách rời đời sống, xin thưa với quí vị, không phải Phật pháp. Chúng ta trước tiên phải đem khái niệm này hiểu cho rõ ràng, hiểu cho sáng tỏ. Nếu như bạn học Phật pháp, xem Phật pháp như cái gì đó rất huyền, rất diệu, không thể áp dụng vào trong đời sống là bạn hoàn toàn sai rồi! Phật Bồ Tát là thầy của chúng ta, Phật Bồ Tát không phải thần linh. Sự phù hộ của Phật Bồ Tát đối với chúng ta chính là lời chỉ dạy từng câu, từng chữ ở trong kinh điển. Chúng ta làm thế nào để được các Ngài phù hộ vậy? Đối với lời giáo huấn của các Ngài triệt để hiểu rõ ràng, hiểu sáng tỏ, áp dụng vào trong đời sống chính là lợi ích đích thực. Đây chính là Phật Bồ Tát phù hộ cho chúng ta. Cho nên ở trong Phật pháp, một mảy may mê tín cũng không có.
Hôm nay thời gian đã hết, nguyện này chúng ta chỉ giảng đến đây thôi. A Di Đà Phật!