Kinh Bi hoa ghi nhận rằng: “Thuở xa xưa, ở thế giới San Đề Lam thuộc Đại Kiếp Thiện Trì có vị vua tên là Vô Tránh Niệm (Aranemin), có vị đại thần tên là Bảo Hải Phạm Chí. Con trai của vị đại thần ấy tên là Bảo Tạng sau khi xuất gia, chứng Bồ đề, hiệu là Bảo Tạng Như Lai. Đức Như Lai vì vua Vô Tránh Niệm nói Pháp, nhà vua cúng dường Đức Như Lai với các Thánh chúng, thời Bảo Hải Phạm Chí khuyên đức vua với một ngàn người con của vua phát Tâm Bồ đề (Bodhi-citta). Nhà vua liền phát Tâm Bồ đề, nguyện cầu cõi nước thanh tịnh. Đức Bảo Tạng Như Lai bèn thọ ký cho nhà vua, sau này được thành Phật tên là Vô Lượng Thọ (Amitāyus) tại Thế giới An lạc (Sukhavatī) ở phương Tây. Hai người con của vua Vô Tránh Niệm cũng được Đức Bảo Tạng Như Lai thọ ký cho: Vị thứ nhất tên là Bất Thuấn sau này là Quán Âm Bồ tát, vị thứ hai tên là Ni Ma sau này là Đắc Đại Thế Bồ tát (tức Đại Thế Chí Bồ tát) đồng ở Thế giới An lạc phụ giúp Đức Phật Vô Lượng Thọ giáo hóachúng sinh. Sau khi Đức Phật Vô Lượng Thọ vào Niết bàn thì Quán Âm Bồ tát sẽ nối ngôi Phật có hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, Thế giới tên là Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu. Tiếp theo, Đức Đắc Đại Thế Bồ Tát sẽ thành Phật có hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai, Thế giới tên là Đại thế”. – Kinh Quán Thế Âm Bồ tát thọ ký cũng ghi nhận: “Quán Thế Âm Bồ tát sẽ thành Phật tên là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, Thế giới tên là Chúng Bảo Phổ Tập Trang Nghiêm. Tiếp theo, Đức Đắc Đại Thế Bồ tát sẽ thành Phật tên là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Như Lai”. – Y theo sự ghi chép của Kinh Lăng nghiêm thì nơi tu (Sở tu) tại Nhân địa của Đại Thế Chí Bồ tát là Niệm Phật Tam Muội. Nhân đây, Ngài đem Pháp môn Niệm Phật dạy Đạo cho chúng sinh. Trong Kinh ghi là: Chư Phật Như Lai ở mười phương có tâm thương xót chúng tựa như bà mẹ nhớ nghĩ đến con cái. Nếu quả nhiên tâm của chúng sinh cũng như vậy nhớ Phật, niệm Phật thì đời này, đời sau quyết định hay nhìn thấy Phật”. Do đó, Ngài đã mở bày pháp môn đó là: Đều nhiếp sáu căn, tịnh niệm nối tiếp, được Tam Ma Địa. Đây là bậc nhất trong mọi pháp môn. Ở đời sau thành chuẩn mực trọng yếu của hành giả tu Tịnh độ – Kinh Thập vãng sinh A Di Đà Phật quốc từng ghi chép: “Nếu có chúng sinh niệm A Di Đà Phật, phát nguyện sinh về Thế giới Cực lạc thời Đức Phật A Di Đà liền sai 25 vị Bồ tát của nhóm Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát tùy theo thời, tùy theo đất… ủng hộ Hành giả” – Trong Kinh Thất Phật bát Bồ tát thần chú của Mật giáo với kinh Dược sư bản nguyện xếp vị Bồ tát vào một trong tám vị Đại Bồ tát. Kinh điển của hệ Đại Nhật kinh đem Tôn này xếp thuộc vào Quán Âm Bộ, Mật Hiệu là Trì Luân Kim Cương, Trì Quang Kim Cương, Chuyển Luân Kim Cương, Không Sinh Kim Cương… – Phật giáo Tây Tạng ghi nhận Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi-bodhisatva) là thân Phẫn nộ (Krodha-kāya) của Đại Thế Chí Bồ tát, biểu tượng cho việc chiết phục và tồi phá tất cả Ma ác.
Theo kinh Quán Vô lượng thọ, vô lượng hằng sa kiếp trước, thời Phật Bảo Tạng, tiền thân Ngài là thái tử Ni Ma và Bồ tát Quán Thế Âm là thái tử Bất Huyền con của vua Vô Tránh Niệm. Bấy giờ, đức vua cùng với hai vị thái tử đến đạo tràng cúng dường và nghe Phật Bảo Tạng thuyết pháp. Đồng thời được Phật Bảo Tạng thọ ký, vua Vô Tránh Niệm tương lai sẽ thành Phật hiệu là A Di Đà ở thế giới Cực lạc, thái tử Bất Huyền sẽ thành Phật hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Phật, còn thái tử Ni Ma sẽ thành Phật hiệu là Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật.
Đại Thế Chí Bồ tát vì Bồ tát thường dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp mọi loài, khiến chúng sanh mười phương thế giới thoát khổ đau, thành tựu đạo quả Bồ đề. Đắc Đại Thế Bồ tát vì Bồ tát có hạnh nguyện đại hùng đại lực đại từ bi, dùng hạnh nguyện này để trụ trong Ta bà thế giới, điều phục và tiếp độ chúng sanh cang cường.
Đại Tinh Tấn Bồ tát vì Bồ tát có sức tinh tấn vĩ đại, điều phục các phiền não và giáo hóa chúng sanh không bao giờ mệt mỏi. Vô Biên Quang Bồ tát vì nơi thân Bồ tát có màu vàng tía chiếu khắp pháp giới, chúng sanh nào có duyên liền thấy được ánh quang minh tịnh diệu của vô lượng chư Phật ở khắp mười phương.
Trong Tây phương Tam thánh, Ngài thường đứng bên phải của Phật A Di Đà, đối diện với Bồ tát Quán Thế Âm, nhằm nói lên Ngài là một trong các vị Thượng thủ trong chúng hội Bồ tát. Lại nữa, Bồ tát Quán Thế Âm biểu thị cho tinh thần đại bi, Bồ tát Đại Thế Chí biểu thị cho tinh thần đại trí, qua đó nói lên ý nghĩa người tu hành cần phải có bi trí viên mãn mới có thể thành tựu được Phật đạo.
Bồ tát thân cao tám mươi muôn ức na do tha do tuần, da màu vàng tử kim, trong thiên quan của Ngài có năm trăm hoa báu, mỗi một hoa báu có năm trăm đài báu, trong mỗi đài báu đều hiện quốc độ tịnh diệu của chư Phật mười phương, nhục kế như hoa Bát đầu ma, giữa nhục kế có một hình báu, khác hình báu nơi nhục kế của Bồ tát Quán Thế Âm.
Còn trong Hiện đồ Mạn đồ la Thai tạng giới của Mật giáo, Ngài là vị thứ hai ở phương trên trong viện Quan Âm, ngồi trên hoa sen đỏ, thân màu trắng, tay trái cầm hoa sen mới nở, tay phải co ba ngón giữa đặt trước ngực. Mật hiệu là Trì luân kim cương, hình Tam muội da là hoa sen mới nở.
Nói đến Bồ tát Đại Thế Chí, chúng ta liên tưởng đến công hạnh đặc trưng của Ngài là tinh thần đại hùng đại lực đại từ bi. Người tu Bồ tát đạo muốn viên mãn quả vị Phật cần phải có đầy đủ tinh thần này. Do vì Bồ tát có đại hùng mới dám xả ly những tham muốn dục lạc thế gian, có đại lực mới kham nổi những công hạnh Bồ tát đạo “Làm những việc khó làm, nhẫn những điều khó nhẫn”, có đại từ bi mới có thể làm tròn hạnh nguyện giáo hóa chúng sanh cang cường khó điều phục.
Với tinh thần đại hùng đại lực, trong kinh Thủ lăng nghiêm, Tôn giả A Nan sau khi được Đức Phật chỉ cho thấy được chân tâm rộng lớn, Ngài đã đối trước Phật phát đại nguyện:
Đời ngũ trược con nguyện vào trước
Nếu có chúng sanh nào chưa thành Phật
Con nguyện không thọ hưởng Niết bàn
Đại hùng đại lực đại từ bi.
Cũng thế, Bồ tát Đại Thế Chí ngày nay tuy đã thành Phật, nhưng Ngài không an trụ trong cảnh giới Niết bàn thọ dụng pháp lạc mà thị hiện thân Đẳng giác Bồ tát, dù chúng sanh có cang cường nhưng Ngài không nản chí, thệ nguyện vào cõi ngũ trược ác thế để giáo hóa chúng sanh. Dù bao gian lao, nhọc nhằn và nguy khó, Bồ tát vẫn không sờn lòng.
Với tinh thần đại từ bi, Ngài dùng trí tuệ quan sát thấy căn tánh của chúng sanh trong thời mạt pháp phần nhiều nghiệp mỏng chướng dày, căn lành nông cạn, nếu tu các pháp môn khác ngoài pháp môn niệm Phật, e khó thành tựu đạo quả giải thoát, vì thế Bồ tát đặc biệt xiển dương pháp môn này.
Trong kinh Lăng nghiêm, chương Niệm Phật viên thông, khi Đức Phật Thích Ca hỏi về pháp môn tu hành, Bồ tát cho biết Ngài tu theo pháp môn niệm Phật mà được thành tựu. Bồ tát bạch Phật: “Con nhớ hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang, lúc đó có mười hai Đức Như Lai thành Phật trong một kiếp, Đức Phật sau hết hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai dạy cho con pháp môn niệm Phật… Nhân lành của con là dùng tâm niệm Phật mà vào Vô sanh pháp nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sanh Tịnh độ”.
Theo lời Bồ tát dạy, người niệm Phật muốn khi lâm chung được vãng sanh Tịnh độ thì trong khi niệm Phật phải có tâm chuyên nhất. Ngài dạy: “Mười phương chư Phật thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con… Nếu tâm chúng sanh tưởng Phật nhớ Phật, thì hiện tiền hay đương lai nhất định thấy Phật, cách Phật không xa, không cần tu phương tiện nào khác mà được thành Phật”.
Như vậy, yếu quyết tu niệm Phật của Bồ tát muốn nhắn gởi đến hành giả niệm Phật không ngoài điểm: “Nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, được Tam ma địa, đó là bậc nhất”. Đây là điều quan trọng mà người tu niệm Phật trong khi hành trì cần phải chú ý mới có thể thành tựu ước nguyện vãng sanh.
Tóm lại, với lý tưởng độ sanh cao cả, với tinh thần không khuất phục trước gian lao, ngày nào chúng sanh trên cuộc đời này còn khổ đau, thì ngày đó Bồ tát Đại Thế Chí vẫn còn miệt mài công việc cứu độ chúng sanh đưa lên bờ Niết bàn. Học theo hạnh nguyện đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, chúng ta cần giữ vững được lập trường tu hành, thực hiện trọn vẹn tinh thần Tứ hoằng thệ nguyện. Khi chúng sanh cang cường vẫn thệ nguyện độ, phiền não đầy dẫy vẫn thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng vẫn thệ nguyện học và Phật đạo dài xa vẫn thệ nguyện thành.
2 bình luận trong “Bồ tát Đại Thế Chí”