Nhận biết được một đời trước của mình đã tu pháp môn gì, cho đến nhận biết được ba đời trước của mình từng thành tựu những pháp gì là chứng được Sơ quả, được giải thoát rồi. Và biết được ba đời trước tu hành đã gặt hái những thành quả nhất định thì chắc chắn đời này chúng ta tu tốt hơn, thăng tiến dễ dàng vì không dám làm việc sai quấy.
Đức Phật khi còn là thái tử đã biết Ngài có phước đời trước lớn vô cùng do đã tu tạo nhiều công đức, nên tái sanh trên cuộc đời này Ngài đã có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, sức khỏe phi thường, thông minh tột đỉnh và sanh trong dòng họ cao quý của hàng vua chúa. Và Thái tử Sĩ Đạt Ta có cái thấy khác với người đời rằng Ngài đã có quá nhiều, nếu chỉ hưởng thụ mà sự cống hiến cho cuộc đời ít ỏi thì hậu vận sẽ không tốt. Thực tế cho Ngài thấy các quân vương có phước lớn mới làm lãnh đạo nhưng họ chỉ lo hưởng thụ và tạo ác, nên cuộc đời kết thúc bi đát.
Nhìn thấy gương người trước khiến thái tử suy nghĩ nhiều về việc vua Tịnh Phạn đã xây ba tòa lâu đài cho Ngài ở thoải mái không bị thời tiết chi phối, còn có cả ngàn vệ binh canh giữ an toàn cho Ngài, cả ngàn người hầu hạ, phục vụ giải trí… Quả là tốn kém không thể kể hết. Ngài tự nghĩ mình chưa làm gì cho cuộc đời nhưng cuộc đời làm cho Ngài quá nhiều thì món nợ này lớn không trả nổi. Đó là sự nhận thức khác nhau giữa Phật và ác ma.
Biết đời trước mình đã tu đương nhiên đời này nỗ lực tu thêm. Và người biết rõ ba đời trước của mình đã tạo được nhiều công đức, đời này họ cố hạn chế tiêu xài tối đa, việc rất cần mới sử dụng. Điển hình tôi thấy Hòa thượng Tuyên Hóa tu ở Mỹ, ngài nói làm tôi giựt mình, suốt 30 năm ngài chỉ mặc một áo tràng, không thay đổi. Đương nhiên ngài có phước lớn, cần gì mà không có nhưng ngài không tiêu xài. Một miếng giấy mà người ta xài rồi bỏ, ngài lấy gấp lại mặt sau để xài đến ba lần. Ngài biết dành dụm phước đức để tích lũy làm Phật.
Ngài Tinh Vân nói phải tiết kiệm thức ăn như tiết kiệm máu. Phật Quang Sơn lớn nhất ở Đài Loan, tôi đến thăm và ăn cơm trưa. Ngài cho dọn mấy hạt mít kho. Quả mít người ta ăn bỏ hạt, Ngài cho lượm hạt và kho cho chư Tăng ăn, tiết kiệm quá sức. Nhờ tiết kiệm đó mà ngài tạo được công đức lớn như xây dựng được trường đại học ở Mỹ, chùa Phật Quang ở Đài Loan, Úc, Canada… Ngài xây dựng chùa ở khắp nơi trên thế giới.
Vì vậy, biết đời trước mình đã tu, đã tạo phước nhưng không xài hết mà tiết kiệm công đức để làm tư lương cho đời sau.
Những gì mình làm cho cuộc đời thì cuộc đời sẽ làm lại cho ta ở kiếp sau là ba đời nhân quả. Thuở nhỏ tôi đọc truyện có anh đóng xe để chở cha lên rừng cho cọp ăn. Con anh hỏi ba đóng xe làm gì. Anh nói để chở ông nội bỏ vô rừng cho cọp ăn vì ông già rồi, không làm được gì. Nó nói ba nhớ đem xe về để ba già, con sẽ chở ba lên rừng bỏ cho cọp ăn.
Đối với lớp tiền nhân, mình biết kính trọng, lớp hậu lai sẽ kính trọng mình. Nếu xử sự tệ bạc với người trước, lớp kế thừa cũng tệ bạc với mình. Đời này làm bất cứ việc gì cũng chuẩn bị tư lương cho đời sau thì đời sau tái sanh, chúng ta sẽ có những kết quả tốt đẹp mà mình đã làm ở đời trước.
Tu Bồ-tát đạo, chúng ta phải làm phước. Tu Thanh văn đạo, chúng ta xả ly, buông bỏ. Tu Bồ-tát đạo, đời này có cúng dường thì đời sau mình đi tu cũng được cúng dường. Đời này có bố thí thì đời sau gặp khó khăn cũng có người giúp đỡ. Nhưng người gặp khó mà bị gây khó thêm gọi là họa vô đơn chí, vì đời trước đã lợi dụng lúc người ta bị hoạn nạn, khó khăn mà hại họ, cướp đoạt của họ.
Khi tôi còn là Sa-di hầu Hòa thượng Trí Quang lúc ngài vô Sài-gòn họp. Ngài thường dạy tôi một câu mà tôi còn nhớ rằng đời này chú không làm mà bị đổ oan thì cảm thấy buồn khổ vì oan ức. Nhưng ngài dạy việc này không oan đâu, phải biết nhân đây mà vào thiền định để quán sát đời trước sẽ thấy ngay việc mình đã làm trong quá khứ. Bài học ngài dạy tôi khiến tôi nhớ mỗi khi có gì xảy ra cho mình thì lấy đó để quan sát đời trước. Và kiểm soát một đời trước cho đến ba đời trước thì đương nhiên mình chuẩn bị đời sau tốt hơn.
Đời này tu để chuẩn bị đời sau. Ý này được sám Quy mạng dạy: “Thử thế phước cơ mạng vị, các nguyện xương long. Lai sanh trí chủng linh miêu, đồng hy tăng tú…”.
Đời này quan sát xem vị trí xã hội của chúng ta tốt hay xấu và từ vị trí đó, cố nỗ lực tu thêm để tạo nhân tốt cho đời sau thì đời sau sẽ được tốt hơn. Đời này chúng ta gặp khó khăn, thì tu hồi hướng công đức để đời sau không gặp khó nữa. Đời này mình học mà không được ai giúp đỡ, vì mình chưa từng gieo nhân lành này. Biết vậy, chúng ta tạo điều kiện giúp người học thì đời sau sẽ có người giúp ta học.
Trên bước đường tu, tôi luôn gặp thiện tri thức thì tự biết tôi đã trồng căn lành ở kiếp quá khứ, nên kiếp này tôi được đi tu từ thuở nhỏ và luôn được thiện tri thức giúp đỡ, hướng dẫn tốt đẹp. Vì vậy, mỗi lần gặp khó khăn, tôi lại gặp quới nhân hiện ra giúp tôi vượt qua chướng ngại và thăng hoa.
Định vị được cuộc sống hôm nay để từng bước phấn đấu đi lên tốt đẹp. Còn không định vị được thì mình sẽ làm theo hoang tưởng, chắc chắn thất bại khổ đau. Nhận thấy thực tế cuộc sống mình làm được gì cho người, cho vật thì sẵn lòng làm.
Có Tỳ-kheo thưa với Phật rằng ngày trước con chưa đi tu, còn có tài sản để bố thí. Nhưng tu rồi, chỉ còn một bát ba y thì muốn giúp người, còn cái gì nữa mà giúp.
Phật nói ông còn nhiều chứ. Chưa tu, ông chỉ có một ít, nhưng bây giờ đi tu, ông có nhiều hơn. Người tu đắc đạo mới thấy lý này. Chưa đắc đạo thấy tu thì mất hết. Nhưng tu đắc đạo thấy mình được quá nhiều.
Thí dụ Kiết Tường Thiên khi chưa tu là cậu bé chăn trâu. Nhưng tu được, vào thành thọ trai được vua Ba Tư Nặc cúng dường. Đó là cái được quá nhiều rồi.
Hay Sunita chưa tu thuộc hàng ngoại cấp thì ai cũng có quyền sai khiến, đánh đập, chửi mắng mà ông không được phản ứng. Ông tu đắc quả La-hán khiến vua Ba Tư Nặc phải đảnh lễ và dập tắt liền ý định hỏi Phật tại sao lại cho người đê tiện này xuất gia.
Tu được quá nhiều thì mình có điều kiện giúp đỡ hơn. Thật vậy, tu được quá nhiều nghĩa là tu được bao nhiêu công đức, được bao nhiêu trí tuệ thì dùng công đức và hiểu biết hơn người như vậy để dạy người, hướng dẫn người sống lương thiện, tốt đẹp, mới làm lợi ích cho cuộc đời.
Vì vậy, điều quan trọng là tu hành phải sanh công đức. Không nhận ra ý này mà tu trở thành người vô dụng, ăn bám mà ngày nay người ta gọi là người phi sản xuất, tức chỉ ăn mà không làm, không lợi ích gì cho cuộc đời.
Phật khẳng định rằng tu làm lợi ích cho cuộc đời nhiều hơn là không tu. Nhưng tu phải đắc đạo thì lấy đạo đức cảm hóa người, lấy trí tuệ hướng dẫn người thành công đời sống vật chất lẫn thăng hoa tâm linh.
Chúng ta còn nhớ Mã Thắng tu tỏa ra đạo lực cao quý khiến Xá Lợi Phất trông thấy vẻ ung dung tự tại giải thoát của Ngài mà phát tâm cung kính và xuất gia theo Phật. Việc này là công đức lớn, nếu Mã Thắng không tu đắc đạo thì không trở thành người đạo đức có sức cảm hóa như vậy.
Người tu đắc đạo sử dụng đạo đức và trí tuệ của mình đi vào đời để làm lợi ích cho mọi người. Thật vậy, xưa kia Nguyễn Phúc Chu đưa di dân từ miền Trung vào Đồng Nai, Bến Nghé, tức TP.Hồ Chí Minh. Thực hiện Bồ-tát pháp, các thiền sư đã theo di dân vào miền Nam, họ đi khai phá vùng đất mới có nhiều nguy hiểm, nhưng người dân thấy thiền sư thì họ yên tâm. Ngoài ra, với trí tuệ của thiền sư biết rõ thời tiết mùa màng nên chỉ dẫn cho người dân trồng trọt làm nông phát đạt. Họ cảm đức của thiền sư mà xây dựng chùa. Thậm chí thiền sư ở chùa Khải Tường thấy vùng Gia Định có nhiều cọp beo, các Ngài hướng dẫn dân chúng nên làm vòng rào bảo vệ, tối đến phải đốt lửa, tụng kinh, đánh hồng chung và nổi trống để thú dữ sợ không dám đến gần. Dân làm theo chỉ dẫn của các thiền sư, họ đã giải tỏa được nhiều nỗi lo và cuộc sống cũng được an ổn, phát triển.
Muốn làm được nhiều lợi ích cho đời, tất yếu phải học và tu có được trí sáng, sức khỏe tốt mới nhập cuộc với đời thì đời kính trọng. Kinh Hoa nghiêm nói ý này rằng thầy trò thường sanh chung một chỗ gọi là quyến thuộc Bồ-đề. Nghĩa là mình tu có đạo đức và trí tuệ thì sử dụng hai điều quý báu này để lãnh đạo quần chúng, đưa xã hội đi lên. Đặc biệt là quần chúng thương và kính trọng, tin tưởng mình thì khi mình rời bỏ thân tứ đại này và tái sanh ở đâu để tiếp tục hành Bồ-tát đạo, quyến thuộc Bồ-đề của mình sẽ tái sanh ở đó để thầy trò cùng tiếp tục phát triển công đức. Vì vậy, trong lòng quyến thuộc Bồ-đề của mình đã có sợi chỉ vàng kết nối tình thầy trò đời trước rồi, nên tái sanh, họ thấy mình là phát tâm theo liền.
Điển hình vua Tần Bà Sa La mới thấy Phật là ông cảm mến và thỉnh Phật về hoàng cung và phát tâm xây lâu đài cho Ngài ở tu. Phật nói ông vua này từ nhiều đời trước là quyến thuộc Bồ-đề của Ngài và Phật từng cưu mang giúp đỡ ông. Vì thế thâm tâm ông nghĩ nhớ ơn Phật, nên đời này tái sanh, dù thay hình đổi dạng, thay họ đổi tên nhưng trong tiềm thức của ông đã có Phật ngự.
Lý này chúng ta dễ kiểm chứng theo thực tế xảy ra, có người mới thấy mình là họ thiện cảm nhưng cũng có người mới gặp mà họ đã không ưa mình. Đó chính là oan gia đời trước, hay ân nhân đời trước mà nay gặp lại thì chúng ta phải quán sát và thực tập pháp nhân duyên. Và tu như vậy, chúng ta tìm được ba đời trước của mình cho đến thấy biết được 500 đời trước là đắc La-hán.
Và biết cùng tột quá khứ như Đức Phật Thích Ca chứng Túc mạng minh, Ngài biết tất cả kiếp quá khứ Ngài từng làm gì và ai là người thân hay người nghịch với Ngài, nên Phật giải quyết tất cả mọi việc hoàn toàn tốt đẹp.
Chúng ta chưa biết quá khứ của mình và người thì có thể dùng cảm tính để biết. Nghĩa là tới chỗ nào hành đạo mà thấy người ta không cảm tình với mình, dù mình cố gắng làm gì đi nữa họ cũng không thương thì nên đi chỗ khác tu. Còn người đang quý mến, hết lòng hỗ trợ nhưng mình xử sự thế nào khiến họ ghét là tu theo tà đạo, không bao giờ thấy Như Lai.
Tu Bổn môn là lắng sâu vào tiềm thức, đi về quá khứ để biết mình từ đâu tới và biết được cùng tận ngọn nguồn của mình và muôn loài là thành tựu quả vị Phật.
— Hết —
HT Tôn sư Thượng Trí Hạ Quảng giảng giải.