Năm 1992, ba ngày sau tang lễ của HT Thích Thiền Tâm (tác giả của cuốn sách nổi tiếng Niệm Phật Thập Yếu), là lễ khai mộ của ngài, mọi người hiện diện đều trông thấy một đôi rắn màu vàng rực rỡ dài khoảng hai mét bò đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt.
Các hình ảnh về đôi Kim Xà (rắn vàng) này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video… Căn nguyên của chuyện này hết sức li kì, đẫm màu kì bí…
Hòa Thượng (HT) Thích Thiền Tâm, sinh năm 1924, là Viện Trường Sáng Lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, khi đó, HT Thích Thanh Từ, vị thiền sư nổi danh tại VN hiện nay, là phụ tá của thầy. Bản chú Đại Bi phiên âm Việt – một thần chú rất phổ thông hiện nay chính là do HT dịch
Khoảng năm 1968, một thời gian Ngài ẩn tu trong rừng, địa phận thuộc tỉnh Lâm Đồng. Vì là nơi rừng núi, ít người lai vãng và có lẽ cũng vì ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại rắn khác nhau.
Theo lời Ngài kể lại, thì trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung bình có, nhỏ có. To thì cỡ bằng cột nhà, trung trung thì bằng bắp vế, nhỏ thì bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v…
Có đôi lúc sau khi làm vườn xong, đến khi trở vào thất thì thấy rắn nó quấn đuôi trên ngạch cửa, thòng mình xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè.
Ban đầu thì ngài cũng có ý sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài, hay là dùng cây đập đuổi thì gây thù oán khó lòng.
Thôi thì cứ niệm Phật mà bước ngang qua đại, rủi có bị nó cắn chết thì mình cũng về Tây Phương, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép “từ bi quán” đoạn nhắm mắt, đi ngang qua cửa.
Con rắn “đánh đu” mình qua bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ lạnh ngắt mà ngài vẫn cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong thất xong rồi mới mở mắt nhìn lại thì nó cũng vừa buông mình ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi bò ra ngoài rừng đi mất.
Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ)… Vừa bước chân xuống “đơn” (tức là cái đi-văng nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng 2 thước rưỡi của người tu) thì ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật gì tròn tròn và mềm mềm.
Ngó xuống, té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường! Ngài nghĩ:
– Cha chả, mình đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn mình quá…
Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. Còn con rắn kia dù bị ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng gì hung hăng hết, y ta từ từ cất đầu lên, nhìn ngài một hồi rồi le cái lưỡi đỏ lòm ra khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại.
Lúc đó Ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với y ta rằng:
– Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy còn niệm Phật nữa.
Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung mình ra dài cả mấy thước, chầm chậm bò đến cửa một cách êm ái hòa bình, rồi ra ngoài rừng mất dạng.
Thêm một lần khác, đêm đó ngài niệm Phật và trì chú Đại bi đến khuya mới xong, vừa bước chân xuống cầu thang thì đạp phải lên một đống gì đó đen thui, to tướng, Ngài biết chắc là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm tỉnh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem thì thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được trong khi cửa nẻo đã đóng kín rồi – sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tròn một đống bên cạnh đôi dép của mình.
Nó nhìn Ngài, Ngài nhìn nó. Hai bên làm thinh ngó nhau một chặp, Ngài vừa niệm Phật vừa hỏi y ta rằng:
– Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải vậy thì gật đầu ba cái cho thầy biết đi.
Rắn ta liền gật đầu 3 cái. Cố hòa thượng biết rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ý gì muốn làm hại mình.
Cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hãy về đi… và y ta nhìn Ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ bò ra ngoài đi mất.
Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay tình cờ gặp phải các “người bạn dài thoòng, thấy dễ sợ” này thì ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện gì khác lạ cả.
Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy nên ngài mới làm pháp “Du già thí thực”, hồi hướng công đức tu niệm của mình để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng (nói khơi khơi một mình nhưng dùng tâm tưởng và tác ý cho loài rắn được nghe):
– Vì khác loài nhau, nên từ nay nếu như quý vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật, v.v… để tu theo thì cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong thất của thầy nữa.
Sau vài lần “truyền lịnh” như thế rồi thì từ đó về sau tuyệt nhiên không còn có một con rắn nào vào trong cốc nữa.
Nơi miền rừng núi cao nguyên này, thường thì có rất nhiều gò mối lớn đặc biệt của miền sơn cước. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một gò mối lớn. Hầu hết gò mối đều là ổ hang của rắn cả, (rắn làm hang trong đó để ăn mối) gò mối càng lớn bao nhiêu thì rắn ở trong đó càng nhiều và càng to bấy nhiêu.
Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một gò mối lớn (đã được san bằng) vì vậy nên có nghĩa là trên mặt đất thì cố Hòa Thượng ở, còn dưới mặt đất là rắn ở. Hòa Thượng đã vô tình “sống chung hòa bình” với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết.
Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến ngài là vì cứ mỗi tối, khi Ngài niệm Phật, trì chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh v.v… thì các “y ta” nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là bò lên mặt đất, rồi ẩn hình nằm tại chỗ để nghe và tu theo.
Đây là lý do vì sao mà khi ngài mới dọn về – như đã có lược qua trong phần trước – là ở dưới chân giường, cầu thang… bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu vì sao nó lại vào thất được, trong khi Ngài đã đóng cửa nẻo kỹ lưỡng hết rồi.
Nhờ tu theo bằng cách “dựa hơi hòa thượng” các “ông dài” này dần dần trở nên linh thông biến hóa được.
Do vì thầm cảm cái ơn trọng đại đó, cho nên các “y ta” kính lễ cố Hòa Thượng như bậc cha, thầy, còn các “y ta” thì giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử.
Vì thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền hòa – chẳng những nó không làm cho ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại còn âm thầm theo bảo vệ cho “Sư Phụ” nữa.
Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi còn sanh tiền, cố Hòa Thượng đã tự thân kể lại cho ni sư Thanh Nguyệt và cháu là Đ.Đ. bổn sư Thích Hải Quang nghe:
Có lần, cố Hòa Thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một gò mối lớn ở phía sau thất (Phương Liên) của ngài – lúc ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc thì ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng: “Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy?”
Ngài quay đầu ngó lại thì té ra là mình đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng.
Rắn ta vì bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng làm cho Ngài hết hồn vội vã buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:
– Ủa nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hãy đi đi.
Ngài lấy tay xua, khởi ý đuổi đi. Rắn ta cũng ngó ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi bò ra phía sau gò mối.
Ngài đứng ngó theo xem nó bò đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tăm hơi gì hết, mới nghĩ: “Ủa, bộ nó còn nằm gần đây sao mà không thấy bò đi đâu hết vậy kìa? Ngài đi vòng quanh gò mối, tìm kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết.”
Khuya lại, sau thời khóa trì niệm (gần 4 giờ sáng) Ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống thì nghe bên ngoài có tiếng gõ cửa.
Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng: “Ủa, giờ này còn sớm quá mà sao Thượng lại tới gõ cửa vậy kìa?”- Bởi vì mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gõ cửa thất của cố Hòa Thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v…
Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa thì thấy: bên ngoài, trước thất của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chân đất (không có dép, giày gì hết), bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật.”
Ngài nghĩ bụng: “Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, mình ở đây cũng đã lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này”. Ngài hỏi:
– Phải hai vị đến xin việc làm không?
Hai người ấy đáp:
– Mô phật, kính bạch Hòa Thượng, không.
– Ủa, vậy chớ có chuyện gì cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?
Người đàn ông đáp:
– Bạch Hòa Thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Hòa Thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đã làm cho Ngài giật mình. Xin Hòa Thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.
Cố Hòa Thượng lấy làm kỳ, nên ngài mới hỏi:
– Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa bé nào đâu!
Người đàn bà đáp:
– Kính bạch Hòa Thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của ngài lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi thêm, vừa hỏi mà trong bụng cũng chưa nhớ rõ ra là ai, bởi vì đâu có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng theo hầu sau lưng mình suốt ngày hôm qua đâu:
– Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
– Kính bạch Hòa Thượng, cháu được 95 tuổi !!!
Ngài giật mình, sảng sốt hỏi tiếp:
– Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi thì hai vị đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
– Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi !
Đến đây thì Hòa Thượng giật mình nhận ra hai vợ chồng này không phải là người. Họ là rắn tinh đã tu luyện đến mức có thể biến thành hình người. Xong Ngài vẫn bình tĩnh hỏi tiếp:
– Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
– Bạch Hòa Thượng, chúng con ở Huỳnh Xà Thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đình con có khoảng một ngàn người…
Vừa nói tới đây thì người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu: “khoảng một ngàn người…” thì làm thinh luôn.
Cố Hòa Thượng gật đầu nói:
– Thôi hai vị yên lòng về đi, không sao đâu.
Nghe ngài bảo như vậy thì hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi vòng ra sau thất của ngài.
Hòa Thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, thì ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bổng lên không về hướng Đông đi mất.
Do đó nên ngài biết rằng: Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đã làm cho mình hết hồn!
Còn hai vợ chồng này là rắn chúa. Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là “Huỳnh Xà Động” (động rắn vàng).
Chắc có lẽ họ mới biết biến hình nên dung mạo còn thô sơ chứ chưa đẹp lắm. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều gì đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo mình nên mới có vẻ kính trọng mình và biết chắp tay niệm Phật như vậy…
___________
Thời gian trước, khi Hòa Thượng về Bến Tre nhập thất, ngài có quen với một vị tu sĩ tên là “Ông sư Mỏ Cày”. Sở dĩ gọi là ông sư Mỏ Cày vì vị này tuy có hình tướng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên luyện điển theo phương pháp xuất hồn, địa danh (tên của vùng đất) nơi ông sư này ở tu tên Mỏ Cày, không ai biết được tên thật của ổng là chi hết.
Ông sư này rất kính quý cố Hòa Thượng qua phong cách và đạo hạnh của ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm. Hòa Thượng cũng có chỉ dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ túc, vì vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Hòa Thượng.
Một hôm, “Ông sư Mỏ Cày” lại lên Lâm Đồng thăm Hòa thượng tại tịnh thất trong rừng, qua một đêm ngủ ở đó, ông phát hiện ra vấn đề…
Sáng hôm sau, ông thưa với cố Hòa Thượng rằng thất của ngài đang ở tu, nằm trên miệng hang của một động rắn “Kim Xà” rất lớn và xin Hòa Thượng hãy cẩn thận vì đây là các loại rắn thần con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết…
Ngài gật đầu, nói với sư là ngài đã biết việc đó từ lâu rồi và cũng có kể lại cho sư nghe về vài ba chuyện của các Kim Xà này.
Qua ngày kế đó, “sư Mỏ Cày” nằm ngủ và xuất hồn ra đi “thăm” xà động này, khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau:
Nguyên từ mặt đất của nền thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới (lòng đất) sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đó có khoảng 200 “ông dài” đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường (hầm) thông qua 3, 4 động khác nữa
Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà Vương (rắn chúa) màu nửa đen, nửa vàng và đều đã được trên một ngàn tuổi rồi – Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền thất của cố Hòa Thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm có đều nghe ngài niệm Phật, trì chú và tu theo cho nên biết biến hóa và đồng thờ cố Hòa Thượng làm thầy để nương theo tu tập.
Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất hồn ra gặp hai vị Xà Vương động chúa này rồi thì mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài là họ muốn được quy y Tam Bảo cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn, họ cũng nói rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi chớ không biết phương cách tu hành (vì rắn lột da cho nên sống lâu lắm)
Cách tu của họ trước kia đơn giản chỉ là cứ ban ngày thì ngó mặt trời, ban đêm thì ngó theo trăng, sao (tu theo phép luyện âm dương nhị khí) nên mặc dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không sao biến hóa được.
Từ khi cố Hòa Thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ nương theo oai lực chú ấn và câu niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” của Hòa Thượng mỗi đêm, cho nên nay đã bắt đầu biến hóa được rồi và thân mình cũng đã đổi từ màu đen ra màu hơi vàng (tức là từ Hắc Xà vương chuyển dần sang Kim Xà vương).
Hiện thời thì hai vị đó đang cùng với các quyến thuộc đều ẩn hình ở tại đây để tu và ngầm bảo vệ cho ngài là bậc đại sư của họ.
Hòa Thượng gật đầu và nhờ sư xuất hồn đến động xà, chuyển lời lại cho các vị Xà Thần này biết là hôm sau Hòa Thượng sẽ truyền phép Tam Quy (Quy Y Phật, Pháp, Tăng – Tam Bảo) để cho họ được dự vào hàng Phật Tử.
Hôm sau, Hòa Thượng đắp y, hậu ngồi trên pháp tòa bày sẵn giữa tịnh thất, trì chú và bắt ấn triệu thỉnh, chỉ đích danh 2 vị Xà Vương chúa động Huỳnh Xà thôn (với sự hiện diện của Sư Mỏ Cày) gọi về…
Liền sau đó ngài thấy trước mặt mờ ảo ẩn hiện ra hai vị xà thần bò vào và hiện hình ra hai người một nam, một nữ trong lứa tuổi khoảng ngoài 60, cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng, quỳ trước mặt chắp tay cúi đầu phụng mạng.
Hòa Thượng mới thuyết Tam Quy cho nghe và kế đó là quy y cho họ cùng các quyến thuộc, đốt chú ấn (mà ngài đã vẽ sẵn trên giấy vàng) để pháp thí cùng rải nước cam lồ xoáy tịnh, chú nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn đều được sanh thiên, y như Phật Pháp tu hành…
Ngoài ra cố Hòa Thượng cũng còn có quy y cho chư thần địa phương như thổ thần, sơn thần, thọ thần v.v… Các vị này cũng đều đồng nương theo ngài để tu tập hết…
Đến năm 1974, Sư Mỏ Cày có lên thăm cố Hòa Thượng một lần nữa và ở cùng với ngài một tuần lễ – Sư có thưa cùng với cố Hòa Thượng mấy điều sau:
1/- Về tình hình đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự “đổi đời” rất lớn, vô số người chết… (tức là biến cố tháng 4 năm Ất Mão 1975).
2/- Sư có xuất hồn ra gặp lại các Xà Thần, điều đặc biệt nhất mà sư thưa cùng với cố Hòa Thượng là cặp Xà Vương Động Chúa Huỳnh Xà thôn, mấy năm qua nhờ được quy y Tam Bảo và tu theo phép của ngài truyền cho (đốt nghi thức tu để pháp thí) khi trước nên bây giờ đều được biến hóa linh thông, từ nơi Hắc Xà Vương nay đã chuyển ra thân Kim Xà Vương (Rắn Chúa màu vàng) và thường hay biến thành hình sư tăng mặc áo vàng, mỗi đêm đều có đi kinh hành niệm Phật chung quanh thất của Hòa Thượng hầu hạ và bảo vệ cho ngài trong tất cả mọi hoàn cảnh (để báo đức tôn sư).
Mấy đêm sau, qua sự trung gian của vị sư Mỏ Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa Động này về. Đêm đó, cố Hòa Thượng chiêm bao, thấy như sau:
Bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni đều mặc áo vàng đi theo sau sư Mỏ Cày vào trong thất quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Ngài hỏi là ai và từ đâu đến?
Hai vị ấy thưa là:
– Bạch tôn sư chúng đệ tử là động chúa Huỳnh Xà thôn, nghe lịnh triệu thỉnh nên về phục mạng.
Hòa Thượng truyền cho đứng dậy thì thấy hai vị ấy thân tướng cũng quang minh, thần sắc sáng sủa, nghiêm chỉnh, trên trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi lóng lánh hào quang.
Ngài hỏi vì sao hai con lại có được các món pháp bảo này?
Hai vị ấy thưa:
– Bạch tôn sư, chữ Vạn này là nhờ nơi quy y Tam Bảo mà có, còn xâu chuỗi này là do công tu tập mà thành – Bất cứ người nào (ý nói là xà thần) ở gần và tu theo tôn sư 3 năm đều cảm hiện ra được cả. Trong hàng quyến thuộc của con hầu hết đều được chuỗi này. Kể từ khi chúng con có 2 món bảo bối này (chữ Vạn là một, xâu chuỗi pháp bảo là hai) thì mỗi khi chúng con đi dạo chơi đến nơi nào cũng đều được chư thần ở địa phương đó kính trọng, nhường đường và gọi chúng con là Phật Tử…
Hòa Thượng gật đầu thuyết pháp cho nghe cùng khuyến nhắc tu hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất.
Mấy hôm sau “Sư ông Mỏ Cày” ra về và có thưa với cố Hòa Thượng rằng: Lần này là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng núi Thất Sơn ẩn tu và sẽ tịch vào năm 1980, không còn có dịp gặp lại ngài được nữa.
Thấm thoắt đã 18 năm sau…
Rạng sáng 13-12 -1992, Hòa Thượng ngồi trước bàn Phật (ở trên lầu) trì niệm suốt buổi. Đến 3 giờ sáng, ngài biết thời khắc vãng sanh sắp đến nên mở mắt ra, truyền lịnh cho ni sư trưởng tử triệu chúng vào trong tịnh thất hộ niệm.
Kế đó Hòa Thượng bước xuống lầu rửa tay, mặt, nghiêm chỉnh y hậu xong ngài an tọa vào trên chiếc ghế nơi mà ngài vẫn thường ngồi để tịnh niệm thường nhật, tay trái kết ấn “Di Đà định”, tay mặt lần chuỗi niệm Phật.
Trước mặt Đại Sư là ni sư trưởng tử và các đồ chúng nơi Phương Liên tịnh xứ vân tập đầy đủ. Đồ Tôn là Tỳ Kheo ni Thích Nữ Bảo Đàn thỉnh bức tượng tranh của đức A Di Đà Thế Tôn đứng trong vị thế tiếp dẫn đặt nơi trước mặt ngài. Các môn đồ, pháp quyến vừa rơi lệ khóc thầm, vừa cất cao tiếng hộ niệm…
Đại Sư mỉm cười thốt lời an ủi rằng:
– Hãy bình tâm lại, đừng có khóc nữa. Ta được về Tây Phương là điều hân hạnh, các con hãy theo đó mà cố gắng niệm Phật. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng hạnh ngộ nhau nơi miền An Dưỡng.
Còn các việc thành, bại, vinh hư trên cõi đời này, chẳng phải là chỗ quan tâm đến của ta.
Đoạn ngài đọc bài kệ rằng:
– Đời ta chí gởi chốn Liên Trì,
Trần thế vinh hư sá kể gì.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A Di
Tuyên xong lời kệ sau cùng này, Ngài ngồi yên trên ghế, nhắm mắt như vào trong định. Đại Chúng biết chắc Đại Sư sắp sửa quy Tây, nên đồng cất cao tiếng hộ niệm, mỗi lúc càng thêm khẩn thiết.
Đến 6 giờ 15 phút (giờ Mẹo) Đại Sư bỗng mở mắt ra, chắp tay nói: “Ta đi đây. Đại chúng nên bảo trọng.”
Đoạn nhắm mắt lại, tay trái ngài vẫn kết ấn Di Đà Định, tay mặt buông xuôi xuống, xâu chuỗi từ trên tay ngài rơi xuống chiếu và ngài lặng im, an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.
Ni sư trưởng tử và các môn đồ pháp quyến cố gắng dằn lòng xúc động, nén nỗi bi thương, vẫn để yên di thể ngài ngồi trên bản tọa như vậy và tiếp tục hộ niệm thêm hai giờ đồng hồ nữa.
Đến 9 giờ sáng mới cùng nhau nhẹ đỡ pháp thể ngài lên, đặt nằm ngay ngắn trên đơn (của ngài), đắp mền lại kỹ lưỡng trông y như ngài vẫn còn đang ngủ vậy.
Toàn thân của Đại Sư vẫn mềm, ấm, dịu dàng và dung sắc vẫn hồng hào, tươi nhuận y như còn sống. Đỉnh đầu ngài nóng hực như tưới nước sôi.
Đại Sư hưởng thọ tuổi đời được 68 – Tuổi đạo 48 (Tăng lạp 42).
Đại Sư có lưu lại một viên NGŨ SẮC KIM CANG NHA XỈ XÁ LỢI (một răng cấm năm màu còn nguyên vẹn) cứng như kim cương, được bảo toàn kỹ lưỡng.
Ba ngày sau (21/12 DL 1992), trong lễ khai mộ của Ngài, tất cả mọi người hiện diện đều trông thấy có một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây bò đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt rồi bò đi vào trong đám cỏ tranh gần đó biến mất. Các hình ảnh về đôi Kim Xà này đều đã được ghi nhận đầy đủ bằng hình chụp và video.
Ưu Bà Di BẢO ĐĂNG.
(Trích từ dharmasite)