Phật trả lời Ngài A Nan: “Vì trình độ các ông trong buổi sơ cơ còn thấp kém, chưa có thể lãnh thọ giáo pháp Ðại Thừa, thực hành đúng lý đặng, nên khi ta còn nói pháp Tiểu Thừa, phương tiện cho các ông tạm dùng ngũ tịnh nhục. Ðến nay trình độ các ông đã cao, lãnh thọ được giáo pháp Ðại Thừa, nên ta cấm tuyệt ăn thịt cá. Còn ăn thứ ấy, thì còn phạm giới sát sanh, nếu không trực tiếp sát thì cũng gián tiếp sát, làm mất hạt giống từ bi bình đẳng, không thể nào tu hành thành Phật được”.
Bàn về ý nghĩa của câu chuyện này có quan điểm cho rằng như vậy lời Phật dạy đã rõ ràng: Ăn chay, nói cách khác không ăn thịt động vật, là một phần của việc thực hành giáo pháp; giữ gìn giới luật, trưởng dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng.
Đây là một trong những pháp hành quan trọng của người Phật tử trong cả hai truyền thống Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) và Phật giáo Đại thừa (Mahayana). Phật tử là người đã theo đạo từ bi, thì không lý nào lại không thực hành đức từ bi trong đời sống của mình từ ý nghĩ, lời nói, cho đến cách ăn uống.
Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, theo Phật giáo Nguyên thủy, việc ăn chay không có mặt trong thời Phật Thích Ca tại thế. Do đó, Phật giáo Nguyên thủy chủ trương ăn cách nào cũng được, tùy duyên trong ăn uống sao cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp. Phật giáo Nguyên thủy không đặt thành vấn đề ăn chay, ăn mặn vì “sự giải thoát không phải do nơi ăn, mà là do nơi thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu và ý”.
Hơn nữa, chính Đức Phật sau khi nghe lời thỉnh cầu của Đề Bà Đạt Đa xin ban hành giới cấm không cho hàng Tỳ kheo ăn thịt cá, Ngài đã không chấp nhận. Bằng chứng là trong kinh Jivaka, Ngài dạy: “Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng (tam tịnh nhục): không thấy, không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng” (Kinh Jivaka, Trung Bộ II, tr.71).
Như vậy, chư Tăng thời Phật còn tại thế sống nhờ vật thực bá tánh dâng cúng trong lúc đi khất thực, hoàn toàn không phân biệt chay mặn, ngoại trừ những vật thực nằm ngoài Tam tịnh nhục.
Khi Phật giáo Đại thừa hình thành, hầu như trong tất cả kinh điển Đại thừa không có kinh nào đề cập đến việc Phật cho phép ăn thịt. Không những thế, các kinh này còn nói rõ việc ngăn cấm ăn thịt.
Trong kinh Lăng Già (Lankavatara), chương 8, Về sự ăn thịt, Phật dạy: “Này Mahàmati, thức ăn của người trí không gồm thịt và máu. Do đó, thịt của một con chó, một con bò… hay thịt người, hoặc là thịt của bất cứ chúng sanh nào khác, vị Bồ tát không nên ăn thịt. Này Mahàmati, vị Bồ tát an trụ trong Đại bi, thương chúng sanh như đứa con độc nhất, do đó phải kiêng ăn thịt…”.
Kế đến, Phật đưa ra tám lý do giải thích nguyên nhân vì sao người Phật tử không nên ăn thịt. Trong đó, lý do sau cùng Phật thừa nhận đã “phương tiện nói giáo pháp cho ăn Tam tịnh nhục và Ngũ tịnh nhục” nhưng “Nay ở kinh này, xóa bỏ tất cả phương tiện, bất cứ lúc nào, chủng loại nào, phàm thuộc loại thịt chúng sanh, thảy đều đoạn dứt”. Có thể nói kinh Lăng Già là cột mốc của thời điểm hủy bỏ mọi phương tiện ăn tịnh nhục đã được Phật quy định trước đó.