Buổi sinh hoạt hôm nay chúng tôi sẽ nói về những điều kiện cần thiết để hoàn thiện cho chính mình. Từ đó chúng ta phấn chấn phát huy công phu tu hành, nhất là hoàn thiện tư cách của một Phật tử, đã có duyên học hiểu và áp dụng Phật pháp ngay trong đời sống của mình.
Trong việc học hiểu và tu hành, có rất nhiều phương pháp mà chúng ta có thể học hiểu, ghi nhận qua lời dạy của thầy. Tuy nhiên khi áp dụng hành trì lại là một vấn đề khác. Vì chưa phải là một con người hoàn thiện, nên trong việc hành trì, có pháp chúng ta áp dụng được, có pháp chúng ta chưa áp dụng được. Nhưng hành trì để làm gì? Chính là để phá trừ những cái riêng, những thứ cù cặn của chúng ta. Như chúng ta đã biết, mỗi người có những nghiệp tập, căn khí, chủng tử… riêng, không ai giống ai. Họa hoằn mới có vài thứ giống nhau. Nhưng nhìn chung thì vẫn là khác biệt. Những “cái riêng” này lớn lao và nhiều vô số kể. Nó phát sinh chính từ chúng ta mà thôi.
Từ lâu, do vô minh mà chúng ta tăm tối, lầm lũi rồi tạo nghiệp từ đời này qua đời khác chồng chất. Trong kinh Lăng Già đức Phật dụ việc ấy như “tằm làm kén, tự nhả tự trói”, không có ngày thoát khỏi. Vì vậy để phá trừ cho được những thứ này, đòi hỏi năng lực dụng công của chúng ta phải to lớn, dũng mãnh và kiên trì. Một đức không thể thiếu để giúp chúng ta trong việc hành trì phá trừ những “cái riêng” đó, là đức “nhẫn”.
GIAI ĐOẠN 1: THỰC HÀNH ĐỨC NHẪN.
Nhẫn là gì? Nhẫn thế nào?
Trong đời thường, khi nói đến nhẫn là ta đã hình dung ra những gì liên quan đến các vấn đề không “xuôi chèo mát mái”, không thuận theo lòng mình. Vì vậy đòi hỏi chúng ta phải nhẫn hay nhẫn chịu. Việc tu hành là một việc làm tự nguyện, cao cả của người con Phật, tại sao phải dùng đến chữ nhẫn? Thưa quí vị, vì dù là ta tự nguyện, nhưng đó không phải là việc thường. Vì thế trên đường tu không phải chỉ có xuôi chèo mát mái mà có trăm ngàn thứ chông gai không lường trước được.
Thứ hai là ta quen sống với vô minh như bà con ruột thịt. Nghĩa là, đối với cái giả thì thuận mà trở về cái thật, thời gian đầu là nghịch. Muốn đi trên con đường nghịch cũng như lội ngược dòng một con thác, đòi hỏi sức nhẫn của ta phải lớn, phải phi thường để giữ sự kiên trì, vượt khó. Thiếu nó chúng ta sẽ dễ dàng bỏ cuộc giữa đường. Chỉ một việc từ đây quyết không để bị lầm mê, bị đẩy xô, bị cuốn hút bởi dòng vô minh cũng đã đòi hỏi một chữ nhẫn rồi. Nếu thực hành được là ta đã có một đức nhẫn.
Trong các việc bình thường hằng ngày như ăn, uống, ngủ, nghỉ, tiếp xúc, đi lại, làm việc… đều đòi hỏi ta phải có đức nhẫn. Chẳng hạn, trong việc ăn uống, trước các thức ăn, chúng ta không để bị lôi kéo. Chúng ta phải nhẫn chịu, khắc phục và làm chủ được đối với thức ăn. Nghĩa là, nhẫn chịu với những thứ không thích, không hợp khẩu vị. Khắc phục đối với những thứ xa hoa không cần thiết cho người tu, với những thứ gây bệnh hoạn cho cơ thể dù là thứ hợp khẩu vị. Ăn vừa phải để không ảnh hưởng đến sức khoẻ, đến công phu tu hành. Ăn đúng giờ, đúng bữa. Và nếu chúng ta thực hành như thế, tức chúng ta đã làm chủ được đối với các thức ăn. Cũng có nghĩa là chúng ta hình thành được đức nhẫn.
Đối với các việc khác cũng vậy. Chúng ta phải cố gắng bình thường hóa với mọi loại âm thanh, dù đó là âm thanh gây sự thích thú hay bực bội. Ngủ vừa đủ để còn tỉnh sáng mà làm việc, mà tu. Đức Phật nói ngủ nhiều thì vô minh. Vô minh tức không sáng, rồi lại lầm lũi tạo nghiệp. Trong việc đi lại tiếp xúc, chúng ta cũng cần phải nhẫn. Đi nhiều quá, tiếp xúc nhiều quá thì thân động tâm động. Động nghĩa là không định, làm sao có tuệ?
Chắc quí vị sẽ nói “đi cũng thiền, ngủ cũng thiền… có gì phải bận lòng”. Phải rồi, người xưa thì “đi cũng thiền, ngủ cũng thiền”, nhưng ngày nay chúng ta không như người xưa. Ta không đi trong tinh thần đạo lý chánh niệm, mà đi để nói chuyện tào lao, làm việc tào lao. Chúng ta đi vì chúng ta không ngồi yên được một chỗ. Thành ra lúc rảnh, thay vì để nghỉ để tu, chúng ta đi còn nhiều hơn lúc bận. Nếu không được như người xưa, thì chúng ta phải biết nhẫn với đi, với tiếp xúc để mà tu. Đến khi nào đi và tiếp xúc được trong chánh niệm, được tự tại an nhiên, lúc ấy muốn làm gì thì làm.
Trong công phu tu hành, chúng ta cũng phải có đức nhẫn, công việc mới trôi chảy thường hằng. Giữ đúng giờ giấc thời khóa ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh là hoàn thành đức nhẫn. Ngồi đủ giờ công phu đã định là có nhẫn. Chịu đựng được với cơn buồn ngủ, mệt mỏi, đau nhức, muỗi mòng khi công phu là nhẫn. Giữ cho công phu được thường hằng cũng đòi hỏi nhẫn v.v… Không có nhẫn chúng ta khó làm được các điều trên.
Chúng ta có thói quen rất dễ quên, rất dễ nguôi. Làm gì hơi lâu mà chưa thấy có kết quả là muốn bỏ cuộc, muốn thối chí. Làm gì hơi mệt, hơi đau cũng muốn nghỉ. Và do thuận với vô minh quá lâu, thành những việc như nghỉ, bỏ cuộc, làm biếng thì lại làm dễ dàng và thường hằng hơn điều ngược lại. Nên nhớ trong việc hành trì Phật pháp đòi hỏi sức nhẫn của chúng ta rất lớn.
Đó là những hiện tướng ở bên ngoài, danh từ trong nhà Phật hay gọi các thứ này là thô. Giờ chúng ta đề cập đến cái tế hơn. Tuy là tế nhưng nó chủ đạo hết mọi cái thô bên ngoài. Nếu người biết tu thì cứ ngay đây mà tu. Nhẫn được với các thứ thô trên thì cũng có nghĩa là nhẫn từ thứ tế này. Tôi muốn nói về ý nghiệp, là các thứ vọng tưởng của mình.
Công vi thủ, tội vi khôi
Ý nghiệp rất quan trọng. “Công vi thủ, tội vi khôi”. Nghĩa là, công cũng nó đứng đầu mà tội cũng nó đứng đầu. Ý chủ đạo trong ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ý không làm chủ thì miệng nói bậy, thân làm bậy. Từ đó gây tạo tội lỗi vô vàn, tồn đọng lại thành những “cái riêng” mà trong đạo pháp hay dùng danh từ “nghiệp tập và hoặc” để chỉ cho chúng. Nếu hành đức nhẫn thì phải sửa ngay từ tên “ý” này. Người có sức chịu đựng thì họ trầm tĩnh, bình thản, an nhiên, rất đằm thắm tự tại. Đó cũng là sự thể hiện của người có công phu, có đức nhẫn.
Tu ở ý có nhiều giai đoạn. Đây tôi nói về giai đoạn đầu. Giai đoạn đầu là giảm thiểu những ý niệm ác, mà người đời hay nói là “tâm ác”. Niệm ác là niệm phá hoại những gì giúp chúng ta hành trì thực hành đạo pháp, là những suy nghĩ trái lại với điều Phật dạy. Khởi niệm xấu ác, thì cố gắng buông bỏ, đừng để chúng hoành hành sai sử, rồi chạy theo mà tạo thành lời nói hay hành động không tốt.
Người xưa nói “gắng bỏ các điều ác, hay làm các điều lành”. Muốn vậy ta phải buông bỏ cho được các niệm ác, tăng trưởng các niệm lành, từ đó mới làm lành lánh ác được. Trong sinh hoạt đời thường, dù là tại gia hay xuất gia, các niệm ác giảm thiểu hoặc mất hẳn, các niệm lăng xăng điên đảo bị hạn chế, là người có đức nhẫn.
GIAI ĐOẠN 2: PHÁT HUY THIỆN LỰC.
Người phát huy được đức nhẫn là người phát huy được thiện lực. Thiện lực là sức mạnh của điều tốt. Khắc phục và làm chủ cái xấu thì cái tốt tự nhiên có năng lực. Khi năng lực thiện đã phát huy thì tăm tối vô minh điên đảo không làm gì được ta. Giống như bật đèn sáng thì bóng tối bị xua tan. Tu như vậy mới gọi là tu! Không phải một tháng đi chùa mấy lần, ăn chay mấy ngày hoặc một ngày ngồi năm ba thời thiền gọi là tu. Xét ra những vị ấy cũng có một chút công phu hơn người, nhưng điều quan trọng là đi chùa thế nào, ngồi thiền ăn chay ra sao để niệm ác giảm thiểu, thiện lực tăng trưởng.
Trong mọi tiếp xúc tương giao sinh hoạt phải làm chủ được các vọng tưởng lăng xăng điên đảo của mình. Trước mọi cảnh duyên nhẫn chịu được, bình ổn được thì mới gọi là có tu, có công phu. Đối với người như vậy, chúng ta sẽ cảm nhận được thiện lực tỏa ra khi gần gũi họ. Đó là điều tất yếu của việc làm chủ các dây mơ rễ má của những ác niệm.
Nhu hay cương đối với vọng tưởng.
Tôi nói đến một mặt khác của đức nhẫn. Người xưa thường nói: “Nhu thắng cương, nhược thắng cường”. Vậy người tu chúng ta nên nhu hay nên cương, nên nhược hay nên cường? Không nhất thiết phải nhu hay nhược. Cương hay nhu còn phải tùy thời, tùy lúc, và tùy ở đối phương. Điều quan trọng là những biểu hiện đó phải xuất phát từ một nội tại vững chắc, với một đức nhẫn toàn bị.
Những thứ cương không có gốc như la hét giận dữ thì quả là không hay. Quí vị cứ thử suy nghĩ xem, có phải người hay la hét giận dữ là người không làm chủ được mình, không có đức nhẫn bền bỉ? Họ chỉ là người yếu đuối, không đương đầu nổi với những bức xúc hiện tại của chính mình và của hoàn cảnh. Người có công phu tu hành sẽ dễ dàng nhận rõ các điều tôi vừa nói.
Giờ đối với vọng tưởng chúng ta nhu, cương thế nào?
Vọng tưởng là cái không thật. Nếu thật, chúng ta lấy nó ra thử xem? Đúng như đức Phật nói, nó chỉ là… vọng tưởng! Vì vậy ta trừng trợn, bặm môi hay loi đấm nó là vô ích. Không ai đi đánh hư không! Điều quan trọng là “không lầm” nó. Hai chữ “không lầm” này xem thì bình thường, nhưng là cả cuộc đời của ta.
Quí vị suy nghĩ xem, tại sao chúng ta lại làm bao nhiêu chuyện tai quái để giành giựt cho được những lá vàng giả? Tại vì chúng ta lầm nó là thật. Có ai biết là giả mà giành giựt để mang họa vào thân không? Chắc chắn là không. Vậy tại sao ta lại theo vọng tưởng để trôi lăn trong đau khổ triền miên của tam giới? Tại vì ta lầm nó! Muốn đừng theo nó để tạo nghiệp thì chỉ cần biết nó không thật, nó là đồ giả, thì buông và yên. Vì vậy đối với vọng tưởng, ta cứ an nhiên, bình thản, nhu hòa miễn đừng để vọng tưởng dẫn lôi. Chỉ cần biết nó giả, không theo là được.
Ở đây đòi hỏi người tu phải có trí tuệ, có đức nhẫn mới làm được. Những lúc thế này, quí vị sẽ thấy đức nhẫn quan trọng thế nào! Quí vị cũng biết, ta quen sống với vọng tưởng lâu rồi, thành ra ta rất dễ quên nó là giả. Một ý niệm khởi lên, lập tức nó là ta, rồi mải miết theo đó mà ngược xuôi xuôi ngược, cho đến khi tỉnh cũng hết cả giờ. Nếu khi nó khởi, ta biết được đó là vọng thì “nó” yên.
Lại nữa, với những loại vọng tưởng cay cú đau khổ, với những cảnh duyên bên ngoài thật khó khăn gian nan, có lúc ta vượt qua, nhẫn chịu, buông bỏ dễ dàng. Nhưng với loại vọng tưởng mềm mại, thân thương, dễ mến thì… thua! Xem ra nhẫn chịu được với các thứ này còn khó hơn vượt núi trèo non, và ta dễ dàng đầu hàng vô điều kiện! Cái khó của ta là ta không muốn buông, không chịu buông, chúng ta tiếc… Vì vậy khi cần cương là phải quyết tâm buông bỏ, không đầu hàng, không lùi bước trước vọng tưởng. Đó là cương mà nhu, nhu mà cương.
Những tùy pháp hỗ trợ cho sự tu hành.
Là một người tu, ai cũng phải cần có đức nhẫn mới có thể từ từ hoàn thiện cho chính mình. Ngoài ra, chúng ta còn có thêm những “tùy pháp”, có thể giúp và hỗ trợ cho công phu tu hành của chúng ta không bị lui sụt. Vì thật ra mà nói thì, đường tu nhiều lúc gian nan lắm! Nếu không có những thứ này thì ta khó vượt qua, khó tiếp tục cho đến khi thành công.
Tùy pháp thứ nhất là niềm tin. Niềm tin một khi đã đủ, ta sẽ có một sức mạnh to lớn hỗ trợ cho việc tu hành của mình. Nhưng tin gì? Tin vào chánh pháp và tin vào chính mình.
Tin chánh pháp tức là tin vào lời Phật, lời Tổ và lời Thầy. Đức Phật nói: “Nếu người có tin, người ấy có thể vào trong biển pháp rộng lớn của ta, có thể chứng được bốn quả sa môn, không uổng công mặc áo ca sa. Nếu không tin thì người ấy không thể vào trong biển pháp của ta… Tuy mặc áo ca sa, tụng nhiều thứ kinh, giỏi vấn nạn, khéo giải đáp đi nữa, thì ở trong Phật pháp chỉ uổng công chẳng được gì”.
Tổ Long Thọ nói: “Phật pháp sâu xa, chỉ có Phật mới biết được. Phật pháp như biển cả, có tin mới vào được, có trí mới qua được”. Vì vậy lòng tin là cửa để vào đạo. Có niềm tin ta mới tiến đến hành trì. Niềm tin khi đã kiểm nghiệm được bằng thực tế, thì niềm tin ấy thật sự vững mạnh. Muốn vậy, trong việc tu hành chúng ta phải hành trì. Trong quá trình hành trì, chúng ta sẽ thể nghiệm được những gì chúng ta đã tin vào sự học hỏi. Niềm tin và sự hành trì là hai thứ hỗ tương tác động cho nhau. Không có niềm tin, ta không thể hành trì. Không có hành trì, ta không thể giữ vững mãi lòng tin.
Lòng tin sẽ được nhận thấy quan trọng như thế nào, khi chúng ta gặp trở ngại, khó khăn. Chẳng hạn do vô minh ta quen sống nương nhờ vào thần linh, cầu xin các đấng ơn trên phù hộ, ban phước. Nghĩa là vận mệnh của ta nằm trong tay một số ngài, mà ta cũng không biết các ngài gốc tích từ đâu. Vì vậy chung quanh đức Phật, chúng ta có vô vàn các hình tượng đủ cỡ đủ loại.
Trong Phật pháp, mọi thứ chẳng qua đều do nghiệp lực và nhân quả mà ra. Nếu không có niềm tin với đức Phật, không có niềm tin với chánh pháp, liệu chúng ta có dám “phạm thượng” mời các ngài đi chỗ khác chơi không? Nếu không, thì có nghĩa là chúng ta chưa dám tin pháp của Phật, tin lời của Phật.
Chưa tin nhân quả liệu chúng ta có thể tin những pháp sâu xa hơn không? Nếu chưa tin làm sao hành trì? Không hành trì làm sao phá trừ nghiệp tập? Càng công phu thấy niệm khởi càng nhiều, ta đâm hoảng sợ. Vậy là bỏ cuộc. Đó là do niềm tin không đủ!
Phật nói “Thân này là giả, ba cõi không thật”. Nhưng vì niềm tin không đủ, nên trong việc hành trì, có gì đụng đến thân lập tức ta thối lui, có gì đụng đến tâm, lập tức ta tránh né, bỏ cuộc. Thành ra tu hoài mà ba nghiệp còn nguyên, ngã cũng chẳng phá nổi, lời Phật Tổ cũng chẳng kiểm nghiệm được gì. Xìu xìu dở dở cho qua một kiếp người.
Tin chính mình tức là tin mình có Phật tánh bất sanh bất diệt. Tin những gì mình gặp đây là do mình đã gây tạo, nhờ thế ta dám đương đầu chớ không tránh né. Tin mình có đủ khả năng phá bỏ cái giả trở về với cái thật. Có niềm tin với chánh pháp, với bản thân, chúng ta mới có thể đương đầu với những khó khăn và tiếp tục gan lỳ đi trên con đường chúng ta đã chọn. Không có nó chúng ta như người bệnh sợ gió, sợ mưa, xìu xìu ễn ễn, không biết bao giờ mới hoàn thành con đường Phật đạo của mình.
Bệnh của người thời nay là an phận quá đỗi. Chúng ta thường tự cho mình là những chúng sanh trong thời mạt pháp, không thể thực hành các pháp sâu mầu của Phật, Tổ để lại. Tu cho lắm cũng không tới đâu. Thành ra chúng ta hiểu thì có hiểu, học thì có học mà tu thì để dành cho Phật Tổ, cho các bậc thượng cơ thượng căn. Chúng ta không tin chính mình, nên chúng ta không dám đương đầu với những khó khăn xuất phát từ chính mình.
Tôi sẽ kể một câu chuyện để quí vị thấy niềm tin quan trọng như thế nào. Có một vị thiền sư, sau khi tìm được chỗ để hành trì đạo pháp, căn bệnh cuối cùng Ngài mắc phải là bệnh kiết lỵ trầm trọng. Lúc ấy, xuất phát từ niềm tin thâm sâu và vững chắc vào Tam bảo, chánh pháp và chính bản thân, Ngài dũng mãnh phát nguyện: “Nếu đại hạn đến, con phải chết và bị sa vào ba đường ác vì những ác nghiệp gây tạo đời quá khứ, con xin chấp nhận rơi cho đến cùng, trả cho đến hết. Sau khi trả hết nợ, từ lực Tam bảo và lực Bát-nhã của mười phương các bậc hiền thánh và của chính con, mở mắt quay lại con gặp Phật pháp tiếp tục tu hành.” Bằng ý chí, quyết tâm và niềm tin, Ngài bắt đầu gầy dựng lại công phu. Sức khỏe dần hồi phục, tu hành và đắc đạo.
Vì vậy, niềm tin là điều tối cần yếu của người con Phật, nó là con thuyền đưa ta đến cửa hành trì, giúp ta vượt khó khăn, giúp ta kiên trì và hoàn thành con đường mình đã chọn. Một khi chúng ta ứng dụng niềm tin vào công phu thực hành, thì chẳng bao lâu chúng ta sẽ nhận được niềm tin ấy bằng hiện thực. Từ đó làm hành trang tiếp tục cho hành trình của mình. Không có niềm tin, chúng ta khó trở thành một con người hoàn thiện.
Tùy pháp thứ hai là lòng tin hướng thượng. Hướng thượng nghĩa là hướng lên trên, hướng về những pháp không ô nhiễm bụi trần. Ở đây chúng ta không nói đến Niết-bàn, giải thoát, thanh tịnh, chân như mà chỉ nói đến cái gần gũi với chúng ta là hướng đến một con đường, một hành trình. Trong đó chúng ta vững vàng, hiên ngang, không bị quật ngã bởi những sự kiện chung quanh và tiến thẳng về phía trước.
Sang giai đoạn này nếu chúng ta chưa gầy dựng đầy đủ cho mình, thì chúng ta sẽ bị thối chuyển. Nếu không có tinh thần hướng thượng, nhiều khi ta vấp ngã hoặc bỏ cuộc giữa đường. Chuyện này đâu phải không có trong hiện tại? Rất nhiều kẻ đầu hàng và bỏ cuộc. Thật đáng tiếc!
Tùy pháp thứ ba là sự dũng mãnh, không thối chuyển thì càng dũng mãnh. Dũng nghĩa là mạnh. Mãnh tức là mãnh liệt. Chúng ta không nên hài lòng với những gì mình hiện có. Dù cho là người đã đạt được chỗ rỗng rang, ai chửi cũng mặc kệ, bỏ đói cũng chẳng sao, cũng chưa phải là đã xong chuyện. Phải gắng tiến lên không dừng nghỉ.
Đường tu lắm chông gai, “Phật cao nhất xích, ma cao nhất trượng” là những câu cảnh cáo người tu chúng ta không nên xem thường ngoại cảnh. Chỉ cần sơ ý là vấp ngã ngay. Đạo hạnh càng cao, thử thách càng nhiều. Chớ có xem thường! Dù nó chỉ là vọng giả không thật.
GIAI ĐOẠN 3: CON NGƯỜI HOÀN THIỆN.
Các phần trên, tôi đã nói về đức nhẫn, lòng tin… các phương tiện cần thiết cho việc hành trì tu tập. Đến đây tôi nói về con người hoàn thiện. Con người hoàn thiện quả là một con người khó kiếm, nhưng không phải là không đạt đến được. Con người hoàn thiện là con người đã được toàn bị về đức nhẫn. Là một con người có sức mạnh lớn, không còn nghĩ đến lợi ích của mình hay của một số người, mà là của tất cả. Đây là con người có tư cách sáng chói đặc biệt. Đứng trước những người này, ta cảm thấy quí trọng, vui tươi và yên ổn.
Trong kinh A Hàm kể câu chuyện như sau: Có một con chim nhỏ gặp nạn, đang bay tìm chỗ trú ẩn. Lúc ấy đức Phật và Tôn giả Xá Lợi Phất đang trên đường qua đó. Chim bay ngang Tôn giả Xá Lợi Phất nó vẫn còn run rẩy. Nhưng đến đức Phật thì chim an ổn không sợ hãi. Mọi người thắc mắc về điều này, đức Phật bảo vì Xá Lợi Phất còn chủng tập. Điều này có nghĩa là, công huân và sự toàn thiện bên trong một khi chưa được hoàn chỉnh thì lực cảm bên ngoài vẫn còn yếu kém.
Từ những sự kiện như vậy, ta rút được một bài học về sự hoàn thiện. Hoàn thiện không phải là một con người có ba đầu sáu tay hoặc biết về quá khứ hay vị lai, mà chỉ là một con người bình thường. Nhưng với con người này, mọi cảnh duyên, mọi hiện tượng bên ngoài không làm gì được họ. Bởi vì họ đã gột sạch những cù cặn, những “cái riêng” của mình.
Qua những việc hằng ngày, chúng ta có thể kiểm nghiệm được công phu của mình thế nào. Quan trọng là trong từng giai đoạn phải thấy được, biết được từng tâm niệm, tiến thoái của mình như thế nào. Dù một tháng làm chủ được chỉ có hai ba ngày, cũng phấn chấn tiếp tục, không nên nản mà bỏ cuộc. Vì sao? Vì có thấy, có biết “chỉ làm chủ được hai ba ngày”, tức biết những ngày còn lại ta chưa hoàn thiện. Biết ta phiền não, biết ta bị buộc ràng, dính mắc, thối chuyển, biết được như vậy đều là cái biết chánh pháp.
Người đời vì không biết dính mắc, buộc ràng nên cứ mãi ngập chìm trong ấy. Ta có biết nghĩa là ta đã nhận ra được ít nhiều. Biết thì không lầm. Công phu hằng ngày cũng chẳng qua khỏi một “cái biết” này. Nếu cái biết này được nuôi dưỡng, được phát huy, ta sẽ trở thành chúa tể sơn lâm, không gì có thể làm ta gục ngã. Các công đức từ đây mà phát sinh. Cho nên “cái biết” này chính là gốc của sự tu hành.
Người xưa nói “Cố gắng! Cố gắng! Nỗ lực tu hành, đừng để ngày qua tháng lại bỏ phí một đời”. Cục diện này bao thứ thịnh suy hợp tan vần xoay trong đời như khói như mây. Chẳng có gì đáng quan tâm ngoài công phu, tinh thần mãnh liệt và sự sáng suốt của chính mình. Để từ đó ta có thể làm chủ hoàn toàn những lăng xăng điên đảo vọng tưởng từ bao đời.
Để thay lời kết, tôi xin chúc tất cả thành công bằng bài kệ sau đây: