Chúng sanh mê lầm quên tâm chạy theo vật, hướng ra ngoài gọi là theo duyên, do đó bị cảnh duyên chuyển quên mất gốc, nhận lầm các pháp là thật có, nên gọi là cái thấy điên đảo. Điên đảo là cái thấy lộn ngược, cái giả cho là thật, cái thật thì không nhận thấy. Thiền sư Duy Tín nói: “Khi chưa học đạo thấy núi sông là núi sông, khi học đạo thấy núi sông không phải là núi sông”. Chưa học đạo còn mê, thấy núi sông là thật, ngoài tâm có Pháp thật nên muôn vàn cảnh khổ cũng theo đó mà sanh. Khi học đạo mở sáng được mắt tâm, biết rõ các pháp do duyên sinh không thật có, thấy được lẽ thật đó tâm không còn bám chấp nên phiền não cũng không sanh.
Thiền sư Phật Ấn cùng ngồi thiền với ông Tô Đông Pha, xả thiền ra ông Tô Đông Pha hỏi Thiền sư Phật Ấn:
– Thầy thấy tôi ngồi Thiền hôm nay dáng ra sao?
Thiền Sư Phật Ấn nói:
– Hôm nay ông ngồi tốt lắm, ngồi dáng giống như Phật.
Thiền sư Phật Ấn hỏi lại:
– Còn ông thấy tôi ngồi dáng ra sao?
Ông Tô Đông Pha lâu nay luận đạo thường bị thua Thiền sư Phật Ấn nên hôm nay được dịp trả lại, bèn nói:
– Dáng Thầy ngồi giống như đống phân bò.
Hai tâm trạng rõ ràng, ông Tô Đông Pha lúc đó bị tâm hơn thua che nên ông không thấy dáng thật của Thiền sư Phật Ấn đang ngồi, mà chỉ biết trong đầu có câu trả đũa cho thỏa tức mấy lần đã bị thua. Về nhà gặp cô em gái, Tô Đông Pha kể lại cuộc đối đáp giữa ông và Thiền sư Phật Ấn cho Tô Tiểu Muội nghe. Nghe xong, cô phân tích cho ông Tô Đông Pha thấy rõ tâm ngài Phật Ấn thanh tịnh sáng suốt nên nhìn cái gì cũng sáng suốt, nhìn ai cũng là Phật. Trái lại, ông Tô Đông Pha còn tâm hơn thua nên chỉ nhìn thấy đống phân bò. Như vậy rõ ràng pháp là từ tâm sanh. Tâm trong sáng thanh tịnh thì chúng ta nhìn ra pháp gì cũng trong sáng, thanh tịnh; tâm dơ xấu thì nhìn ra pháp gì cũng thành dơ xấu.
Đó là bài học mà mỗi người phải tự kiểm nghiệm lấy chính mình. Trong cuộc sống hằng ngày, nếu lúc nào chúng ta cũng nhìn lại tâm sẽ chuyển đổi được nhiều tập nghiệp xấu. Khi chúng ta thấy người này xấu, người kia xấu thì biết là tâm chúng ta đang dơ xấu; hoặc thấy người này tốt, người kia tốt là biết tâm mình hiền thiện. Người mê thì luôn luôn cho rằng mình có cái nhìn sành đời, nhìn ai là biết xấu biết tốt, nhưng không ngờ là tâm mình đang chạy theo duyên, đang bị cảnh trói. Nhờ tu Phật chúng ta mới thấy điều đó, tất cả các pháp là do tâm sanh.
Có vị tăng ở Hải Đông, trên đường đi tham học nhọc nhằn mệt mỏi quá, tối đến ông nghỉ tạm ở một ngôi mộ cổ. Đang khát, ông nhìn thấy bên cạnh có một chút nước, mới lấy uống. Đang khát mà uống được nước, ông cảm nhận nước thật ngọt ngào. Rồi ngủ một giấc cho tới sáng. Sáng dậy, ông thấy bên cạnh có cái đầu lâu chứa một ít nước. Nhớ lại tối hôm qua mình đã uống nó, ông liền ói mửa ra hết. Ngay đó, ông liền ngộ: “À! Thì ra tâm sanh các pháp sanh”. Lúc ban đêm, ông uống ngon lành, bây giờ chỉ thấy thôi là đã ói. Rõ ràng cũng là nước, ban đêm chưa có tâm phân biệt chỉ thấy có nước là liền uống; sáng ra thấy nước đựng trong cái đầu lâu nhơ nhớp, tâm phân biệt khởi nên ông vừa thấy là ói mửa ra. Do tâm sanh mà các pháp sanh, chứ nước chỉ là nước thôi.
Luật sư Độc Thể cùng với chúng tăng ở trên núi Hoa Sơn, bị bắt xuống doanh trại của quân lính. Các tướng trong doanh trại mới tra hỏi và sau đó được tha trở về. Sư cùng với chúng trở về, đến lưng chừng núi thì trời đã tối. Trong mấy ngày bị bắt tra hỏi, không được ăn uống gì hết nên ai cũng mệt lả và khát nước. Chợt thấy một vũng nước nhỏ, mỗi người mừng rỡ lấy uống cho đỡ khát. Sáng dậy thấy là một vũng nước dơ của những con trâu nằm quậy, ai nhìn thấy cũng không dám uống. Ban đêm mỗi người uống ngon lành, vì lúc đó tâm chưa phân biệt. Sáng ra nhìn thấy sanh tâm phân biệt nên không dám uống nữa. Gọi là pháp từ tâm sanh. Tâm đang khát nước, trời tối thấy nước thì chỉ biết uống thôi, không nghĩ ngợi gì hết. Sáng ra phân biệt nước nhơ nước sạch thành ra ngăn ngại. Như vậy pháp nhơ, pháp sạch đâu có cố định; cũng là nước đó nhưng do tâm sanh, tùy tâm mà sanh nhơ, sanh sạch. Chúng ta luôn kiểm tra lại tâm mình, thấy rõ từng đường đi lối về của tâm để có thể giải quyết nhiều chuyện vướng mắc trong cuộc đời. Tất cả đều do tâm chúng ta sanh ra các pháp, không có pháp nào thật cả, chỉ vì ta mê nên nhìn mọi vật bằng cái nhìn điên đảo, mê lầm để rồi dẫn đến phiền não khổ đau. Phiền não khổ đau này do ai tạo? Do tâm mê của chúng ta tạo ra chứ không phải ai cả.
Có câu chuyện, ông hàng xóm mất một con gà kiếm hoài không ra. Ông nghi ngờ thằng bé hàng xóm gần nhà lấy trộm, vì nó hay qua lại nhà ông. Thế là ông để ý nhìn nó đi qua đi lại, thấy dáng nó đúng là dáng ăn trộm. Ông nghi ngờ đủ thứ hết. Vài ngày sau, ông tìm lại được con gà không phải do thằng bé lấy trộm, mà con gà chạy qua nhà người khác và bị con chó vật chết. Bây giờ ông mới tỉnh ra, mình đã nghi oan cho đứa bé. Ông nhìn lại đứa bé đúng là dễ thương, không có tướng ăn trộm. Ông liền chuyển đổi cái nhìn. Cũng là đứa bé nhưng tâm ông nghi ngờ rồi suy đủ thứ hết, nhìn nó thành ra tướng ăn trộm. Khi tâm hết nghi, thấy đứa bé thật thà dễ thương. Cũng vậy, trong cuộc sống chúng ta có thành kiến với ai rồi, thì nhìn người đó cái gì cũng xấu, đó là tùy tâm sanh. Cho nên, chúng ta hãy quán kỹ lại để thấy được sự lầm lẫn nơi tâm của mình.
Như bình hoa đây, nó đâu tự nói nó là bình hoa, cũng không tự nói nó đẹp hay xấu. Nhưng do tâm người đặt ra đây là bình hoa rồi phân biệt bình hoa thế này thế kia, chứ từ nguyên thủy nó không có tên. Nếu ban đầu con người đặt cái này là cái ly hoa thì bây giờ chúng ta cũng gọi là cái ly hoa, nhưng người xưa đặt tên là bình hoa nên giờ mình cũng gọi là bình hoa. Tên do tự con người đặt ra, chứ tự thân sự vật đâu có đặt ra cái này cái kia. Chính con người tự đặt tên rồi con người chấp vào nó, để thấy đúng ý nghĩa là pháp từ tâm sanh, khi hiểu được rồi chúng ta phải trả lại pháp đúng như thật của nó.
Trong thiền thoại kể có ba vị thiền sư: ngài Quế Sâm, ngài Trường Khánh, ngài Bảo Phước đi vào trong Châu Thành thấy một đóa hoa mẫu đơn.
Ngài Bảo Phước nói: “Một đóa hoa mẫu đơn đẹp”.
Ngài Trường Khánh nói: “Chớ để con mắt sanh hoa”.
Ngài Quế Sâm nói: “Đáng tiếc một đóa hoa”.
Đây là các Ngài muốn cảnh tỉnh cho người.
Một đóa hoa bình thường, nó không tự nói là nó đẹp hay xấu. Nhưng do tâm người sanh nên nó thành ra có thế này thế kia, đây gọi là đang bình yên mà gây thành sóng gió. Như một thỏi vàng đối trước một đứa bé thì nó có biết gì đâu, đưa một thỏi vàng và một viên kẹo sôcôla cho đứa bé thì nó sẽ lấy viên kẹo mà ăn, thỏi vàng thì đâu ăn được. Đối với đứa bé, thỏi vàng còn thua một viên kẹo nhưng đối với người lớn thì có thể giết nhau. Một thỏi vàng vô tri vô giác nhưng tâm con người ta sanh ra trong đó thành nguy hiểm, rồi chúng ta cho là vàng độc, nhưng với đứa bé nó đâu thấy gì là độc. Tại tâm con người sanh phân biệt nên có quý có phiền, đó gọi là điên đảo. Hiểu được lẽ thật đó, chúng ta mới mở tầm nhìn sáng suốt để ứng dụng tu cho đúng đắn, chín chắn hơn.
Có lần, một vị tăng hỏi Thiền sư Bá Trượng – Hoài Hải:
– Đối với tất cả cảnh, làm sao tâm được như cây đá (không dính mắc)?
Thiền sư Bá Trượng – Hoài Hải đáp:
“Tất cả các pháp vốn chẳng tự nói là không, chẳng tự nói là sắc, chẳng tự nói phải quấy, nhơ sạch, cũng không có cái tâm trói buộc người, chỉ tại người hư vọng, tính chấp tạo bao nhiêu cái hiểu, khởi bao nhiêu thứ thấy biết, rồi sinh bao nhiêu thứ lo sợ. Cần phải nhận rõ, các pháp không tự sinh, đều do một niệm vọng tưởng điên đảo của mình chấp tướng mà có. Biết tâm cùng cảnh không có đến nhau, thì ngay nơi đó là giải thoát, mỗi mỗi pháp ngay nơi đó là lặng lẽ, là đạo tràng”.
Hiểu rõ các pháp tự nó vốn không có sanh tâm trói người, chỉ do người ở trên pháp mà sanh tâm rồi tự trói. Bây giờ chúng ta thấy các pháp là các pháp thôi, tâm và cảnh không đến với nhau thì ngay đó tự giải thoát. Bình hoa nằm trên bàn này, mắt của chúng ta thì ở trên gương mặt, nó đâu có đến nhau. Như vậy tại sao nó trói mình?
Cũng như mấy vị tham dục, thân thì ngồi trong nhà nhìn ra ngoài đường thấy cô gái đẹp đi ngang liền nói cô gái đó trói mình. Sự thật cô gái có hay biết gì đâu! Do tâm người đó khởi nên mới chạy đuổi theo vướng mắc, rồi đổ lỗi cho người ta. Đây Thiền sư dạy tâm và cảnh không có đến nhau, nhận chân được chỗ này là giải thoát. Lẽ thật của các pháp như vậy đó, chúng ta không nên trách nơi pháp mà phải trách ngay tâm của chính mình. Có nhiều vị nói chỗ này khó tu, cảnh kia khó tu rồi tìm lên núi tu. Đó là đổ lỗi cho cảnh, nhưng cảnh đâu có làm mình khó tu. Nếu lên núi vắng vẻ mà tâm chúng ta không an thì ở trên đó cũng bất an như thường.
Thời Phật, có đạo sĩ Uất-đầu-lam-phất tu tiên đắc được Phi Phi Tưởng Xứ định, có thần thông. Mỗi ngày ông dùng thần thông bay tới cung nhận vua dâng cúng dường. Hôm đó vua đi vắng, dặn công chúa ở trong cung khi Tiên nhân tới phải tiếp đãi, cúng dường cho chu đáo, đừng để sơ suất ông sẽ quở rất nguy hiểm. Mỗi lần ông Uất-đầu-lam-phất tới, vua thường dìu ông lên đài ngồi và cúng dường. Bấy giờ, cô công chúa cũng đỡ Tiên ông lên đài ngồi, nhưng do xúc chạm với cô gái nên tâm dục của ông khởi lên, liền bị mất thần thông. Thọ trai xong, ông không biết làm thế nào để bay về, đành nói với cô công chúa:
– Bấy lâu, ta thường dùng thần thông bay đến rồi về, không có dịp cho dân chúng chiêm bái, nay ta sẽ đi bộ về cho họ chiêm bái.
Nghe có lý, nên cô công chúa cũng đưa ông đi bộ về. Khi trở về núi, ông ngồi thiền bên bờ suối, có tiếng nước suối chảy róc rách, tiếng cá lội chim kêu làm tâm rối loạn, ông nổi sân lên. Ông phát nguyện: “Sau này sẽ làm con chồn bay để ăn hết tụi bay”. Sau đó, ông cố gắng tu và đắc định trở lại, sau ông chết được sanh lên cõi trời Phi Phi Tưởng Xứ. Đức Phật dùng thiên nhãn thấy ông sống đến hàng tỷ năm, nhưng khi hết kiếp sống trên cõi trời ông sẽ bị đọa làm con chồn bay.
Để thấy trong núi sâu chỉ có cá lội, chim bay cũng làm cho tâm con người bất an. Tâm đã không an thì ở đâu cũng không an, không thể đổ lỗi nơi pháp, nơi cảnh. Ngài Bá Trượng cũng nói pháp không có tâm trói buộc người, chỉ tại người hư vọng tính chấp, khởi bao nhiêu thứ hiểu biết rồi yêu sợ thành ra bị vướng hết trong đó. Tùy tâm mà thấy ra cảnh, pháp cũng từ đó sai biệt. Với người tâm thiền tỏ sáng thì nhìn ra cái gì cũng thiền, thấy đâu đâu cũng là Phật pháp. Tâm thanh tịnh nhìn cảnh bình thường cũng thiền, đọc chuyện thường cũng thành thiền.
Như người có tâm thiền đọc bài ca dao “Thằng Bờm có cái quạt mo” cũng thấy chất thiền trong đó:
Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu,
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè,
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim,
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi,
Phú ông xin đổi nắm xôi Bờm cười.
Thiền ở chỗ nào? Chỉ có cái quạt mo mà Phú ông xin đổi ba bò chín trâu, chim đồi mồi v.v… nhưng Bờm không lấy, đây là Phú ông chỉ gạt thằng Bờm thôi. Nhưng thằng Bờm ngây thơ không nghĩ bị gạt mà nghĩ theo thực tế. Bây giờ bụng Bờm đang đói mà ba bò chín trâu thì xa vời quá, nên khi Phú ông đổi gói xôi là Bờm chịu liền. Sống ngay thực tế chứ không nghĩ tưởng đâu xa hết, thiền là ở chỗ đó. Cho nên, với tâm thiền thì cái gì cũng thiền, còn tâm thế gian phân biệt thế này thế kia nên không thấy được ý thiền trong đó. Rõ ràng pháp từ tâm sanh, tâm sanh thì các pháp sanh. Tâm là gốc, nếu tâm chuyển thì pháp sẽ chuyển theo.
Trích “TÂM SANH CÁC PHÁP”
Hoà Thượng Thích Thông Phương