Cũng như câu chuyện ông Trưởng giả Cấp Cô Độc, trong kinh kể ông là vị hộ pháp bậc nhất thời Phật. Trưởng giả thường đến nghe Phật nói pháp, khi được tin ông bệnh nặng gần lâm chung thì Tôn giả Xá Lợi Phất với Tôn giả A Nan liền đến thăm.
Ông Cấp Cô Độc đang nằm trên giường bệnh, hai Tôn giả ngồi trên ghế bên cạnh giường, biết ông không còn sống được bao lâu Tôn giả Xá Lợi Phất nhắc nhở:
“Ông Cấp Cô Độc, ông đã sống một cuộc đời cao thượng và hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho giáo pháp. Trong buổi thuyết pháp vừa qua tại tinh xá Kỳ Hoàn, Đức Thế Tôn đã tán thán công đức của ông như thế. Mọi việc đáng làm ông đã làm trong suốt cuộc đời, giờ đây ông nên bình tỉnh lắng nghe tôi nói và làm theo”.
Tôn giả Xá Lợi Phất hướng dẫn ông quán tưởng để chuẩn bị cho cái chết. Tôn giả bảo:
“Này ông Cấp Cô Độc, ông nên quán như sau: Mắt không phải là tôi, tai không phải là tôi, mũi, lưỡi, thân cũng không phải là tôi”. Tức là quán mắt tai mũi lưỡi này không phải là mình để buông không có bám luyến nó.
Đợi cho ông quán tưởng xong, Tôn giả Xá Lợi Phất nói tiếp:
“Ông nên tiếp tục quán tưởng như sau: “Những gì tôi thấy không phải là tôi, những gì tôi nghe không phải là tôi, những gì tôi ngửi không phải là tôi, những gì tôi nếm, tôi xúc chạm cũng không phải là tôi”.
Chúng ta thấy các cảm xúc từ các giác quan là mình, nhưng ở đây Tôn giả dạy ông quán chiếu những gì tôi thấy, tôi nghe, tôi ngửi là không phải mình, đây là nó lệ thuộc vào trong sáu cửa này. Nếu thực là tôi thấy, thực là tôi nghe, thì nó không có chết, không mất.
Lát sau, Tôn giả chậm rãi nói tiếp:
“Ông nên quán tưởng rõ ràng như thế này: Mắt tai mũi lưỡi thân ý không phải là tôi, sắc thinh hương vị xúc pháp không phải là tôi, thấy nghe ngửi nếm xúc chạm suy nghĩ cũng không phải là tôi. Vì nếu mất một hay tất cả mười tám thứ đó, thì tôi vẫn là tôi không bị sứt mẻ gì, tôi không bị ràng buộc và giới hạn trong những yếu tố ấy”.
Tức là những thứ đó thuộc về vô thường, cho nên nó mất mà tôi không mất. Những thứ đó là nhân duyên, mắt đối với sắc thì mới có thấy, nói tôi thấy sắc, nếu không có sắc thì cái thấy đó là mất liền. Cho nên cái thấy đó vẫn là nhân duyên đối đãi, chưa phải thật là tôi.
Nếu thật tôi thì dù có sắc hay không có sắc, có trần hay không có trần, có cảnh hay không có cảnh, lúc nào nó cũng phải thấy, còn cái này thuộc về nhân duyên đối đãi vô thường, nên chưa phải thật.
Tôn giả nói một hai cái trong những thứ này mất thì tôi vẫn là tôi, tôi không bị sứt mẻ, không bị ràng buộc và giới hạn trong những yếu tố ấy. Cho nên quán những thứ đó không phải là tôi, buông hết không bám, thì không có gì phải quyến luyến, vướng mắc.
Ngưng một lúc, lại nói tiếp:
“Ông nên quán tưởng như thế này: Thân sắc này không phải là tôi, cảm giác đau đớn này cũng không phải là tôi, rồi sự suy nghĩ này cũng không phải là tôi. Sự biến đổi của thân xác và tư tưởng không can hệ gì đến tôi. Sanh tử không chạm được tới tôi, sinh không làm cho tôi có, tử không làm cho tôi mất, tôi mỉm cười biết rằng cái tôi chân thật chưa hề sanh cũng không bao giờ diệt”.
Thân xác biến đổi, rồi cảm giác đau đớn cũng là vô thường. Lúc trước nó đâu có bây giờ nó có, đó là mới sanh, trải qua thời gian rồi nó cũng mất nên vô thường không phải tôi. Những tư tưởng suy nghĩ cũng vậy, cũng vô thường không phải là tôi, cho nên nó không can hệ gì tới tôi.
Thực tập tới đây ông liền mỉm cười. Mỉm cười tức là đã biết cái tôi chân thật chưa hề sanh cũng không bao giờ diệt. Mỉm cười rồi bỗng nhiên ông khóc, nước mắt chảy đầy hai má ông.
Tôn giả A Nan thấy vậy, mới hỏi:
“Ông Cấp Cô Độc, sao ông lại khóc? Ông có nuối tiếc cái gì không? Hay là ông quán chiếu không thành công?”.
Ông thưa: “Thưa Thượng tọa! Tôi không có nuối tiếc gì, nhờ đã nhiều lần được nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, nên hôm nay tôi quán chiếu rất thành công”. Tức là đã huân tập nhiều, có chuẩn bị cho nên bây giờ quán chiếu dễ dàng, không có khó khăn gì hết.
“Nhưng tôi cảm động quá, vì suốt ba mươi lăm năm được phụng sự Đức Thế Tôn, và gần gũi các vị Thượng tọa mà chưa bao giờ tôi nếm mùi vị giáo lý thậm thâm vi diệu như hôm nay”. Ông xúc cảm khóc là vậy đó, chứ không buồn tiếc cái gì.
Tôn giả A Nan bảo:
“Ông Cấp Cô Độc, pháp môn quán mười tám giới phân biệt và quán Bát Nhã này, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ cũng thường được nghe Đức Thế Tôn giảng dạy luôn”.
Ông thưa: “Thưa Thượng tọa! Xin Thượng tọa bạch với Phật cho phép giới cư sĩ cũng được nghe để hiểu và thực hành giáo lý thâm diệu này”.
Ông từ trần ngay buổi chiều hôm đó, một cái chết cũng rất là sáng ngời. Tức là ông chết trong niềm tin sâu với Phật pháp, chết trong an lành không có sợ hãi. Nhờ quán kỹ và có chuẩn bị kỹ.
Quán kỹ thân xác này không phải mình, những cảm thọ này không phải mình, cho đến những tư tưởng này cũng không phải mình. Rồi mắt, tai, mũi, lưỡi này cũng không phải mình, không có gì là mình thì buông bỏ nó đâu có gì phải tiếc.
Vì chúng ta thấy nó là mình cho nên khi bỏ liền thấy tiếc, tiếc cho nên khổ rồi bỏ thì không đành, mà đi thì không được, lúc sắp chết dây dưa nên khó chết. Nhờ quán kỹ như vậy nên bỏ nhẹ nhàng, đi cũng nhẹ nhàng. Đó là có chuẩn bị, gọi là chết trong đạo lý.
Đó là những ý nghĩa chân thật để nhắc cho tất cả luôn ghi nhớ. Như lời Tôn giả Xá Lợi Phất đã nhắc nhở, tức là sinh không làm cho tôi có, tử không làm cho tôi mất.
Tôi mỉm cười biết rằng cái tôi chân thật chưa hề sinh cũng không bao giờ diệt. Những cái này không phải là tôi, cho nên tôi sẵn sàng buông nó nhẹ nhàng. Còn thấy nó là tôi, chấp nó là tôi, cứ bám hoài không dám buông nên khó chết. Đó là chưa nói đến việc nhớ tiếc của cải, sự nghiệp thì càng lưu luyến buông không nổi rồi cũng khó chết.
Cần quán kỹ như vậy để chuẩn bị cho bản thân có đường đi, có pháp để sống, để đi. Cho nên phải thường xuyên thực tập, thực tập đều đặn để mình chuẩn bị cho mình, đây là bài thực tập suốt đời cho mình, chứ không phải chỉ nghe đây xong rồi thôi.
Hòa thượng Thích Thông Phương .
Trích trong : CHẾT – SỐNG.