Đức Phật đã dạy tám muôn bốn nghìn phương pháp khác nhau, nhằm giúp cho chúng sinh giải phóng tất cả phiền não khổ đau, bởi sự đa dạng trong nhu cầu và năng lực của họ. Từ xưa đến nay, từ thế hệ này tiếp nối thế hệ khác, những trở ngại của chúng ta khác nhau tùy thuộc vào hoàn cảnh mà chúng ta phát hiện “Bản lai diện mục” (Bộ mặt thật xưa nay) của chính mình.
Hai vấn đề quan trọng xuất hiện trong các cuộc thảo luận chính trị về sự giải thoát cho chúng sinh là “Tự do, Bình Đẳng”. Trong nhiều thế kỷ trước, khái niệm về Tự do, Bình Đẳng”nổi bật trong những ý tưởng của nhiều nhà triết học, nhà cách mạng, và các nhân vật chính trị. Hệ thống chính trị trên thế giới có thể không hài lòng về cách tốt nhất để đạt được sự “Tự do, Bình đẳng”, thậm chí những gì gọi là “Tự do, Bình đẳng”, nhưng một số loại Tự do, Bình Đẳng” là mục tiêu cho hầu hết trong số họ.
Với tầm quan trọng đó là thuộc khái niệm này, nó không có gì ngạc nhiên khi những Phật giáo đồ đã rút ra từ các tài nguyên phong phú của truyền thống họ, để tiếp cận các vấn đề Tự do, Bình Đẳng”và một số đã được tìm thấy trong “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm” (zh. 大方廣佛華嚴經, sa. buddhāvataṃsaka-mahāvaipulyasūtra, ja. daihō kōbutsu kegonkyō), thường được gọi tắt là “kinh Hoa nghiêm-華嚴經” (sa. avataṃsakasūtra hoặc gaṇḍavyūha), các ý tưởng từ Kinh Hoa Nghiêm có thể được sử dụng để thúc đẩy sự “Tự do, Bình đẳng” giữa con người, xã hội và các quốc gia.
Hoa Nghiêm là một tông phái Phật giáo có sự ảnh hưởng khắp Đông Nam Á, và hiện nay đã lan tỏa đến Âu, Mỹ, đầu tiên do Ngài Đỗ Thuận (557-640) sáng lập và được phát triển suốt triều đại nhà Đường, Trung Quốc (618–907). Kinh Hoa Nghiêm thuộc hệ thống kinh điển Đại thừa liễu nghĩa Phật giáo. Trung tâm tư tưởng của Hoa Nghiêm là Hetu (nguyên nhân): Nói lên sự tương quan lẫn nhau của mọi hiện hữu, ví dụ như để nhìn được thì Nhãn thức phải hội đủ điều kiện.
Mỗi điều duy nhất, có thể là một người, một đối tượng, một ý nghĩ, một thế giới, hoặc một hệ thống năng lượng mặt trời, là hoàn toàn tương quan vào tất cả mọi thứ khác trong vũ trụ để cùng tồn tại. Ví dụ, bạn tồn tại bởi các bậc cha mẹ sinh thành dưỡng dục, vì mặt trời mang lại cho cuộc sống những thực vật, những thức ăn bổ dưỡng, trái đất tạo ra lực hấp dẫn mà giữ những vật gắn liền với trái đất v.v…
Một số Phật giáo đồ hiện đại sử dụng phân tích Kinh Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm vô cùng phong phú của sự tương quan lẫn nhau, cũng như nhận dạng và khác biệt, nói về sự “Tự do, Bình đẳng”. Ý tưởng về sự Tự do, Bình Đẳng”, được nêu trong tư tưởng chính trị phương tây, đầu tiên bắt đầu lưu hành ở Đông Nam Á vào cuối thế kỷ 19. Đến năm 1910, nó được phổ biến rộng ở các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc và các tác giả như Nhật Bản, là mục tiêu đáng ca tụng đối với một xã hội.
Đại Tông sư Nghĩa Tương (625-702), người khai sáng PG Hoa Nghiêm tông Hàn Quốc. Cốt tủy triết học Hoa Nghiêm do Đại sư Nghĩa Tương sáng lập tại Vương quốc Tân La, đặt căn bản trên Pháp giới của Phật giáo (quy luật vũ trụ) liên quan đến triết học Trung đạo Phật giáo. Tại Hàn Quốc, Tông phái Hoa Nghiêm được duy trì từ đó và phát triển cho đến ngày nay.
Thiền sư Vạn Hải (Manhae – 萬海, 1879-1944), pháp danh Hàn Long Vân (Han Yong-un – 韓龍雲), một trong những nhà tư tưởng lớn ở Hàn Quốc, những nỗ lực của ngài nhằm hiện đại hóa và cải cách Phật giáo Hàn Quốc vẫn còn gây ảnh hưởng mãi với Phật giáo và dân tộc.
Năm Quý Sửu (1913), ngài cho ra đời cuốn “Triều Tiên Phật giáo duy tân luận” (조선불교유신론, 朝鮮佛敎維新論), một kim chỉ nam hoạt động mang tính thực tiễn, chủ trương đưa Phật giáo tham gia vào hiện thực.
Thiền sư Vạn Hải đã thu hút rộng rãi bởi sự phát huy đạo Phật hoạt động trên thế giới và sự “Tự do, Bình đẳng” của con người mà một trong những vấn đề quan tâm nhất đối với ngài. Thiền sư Vạn Hải trích dẫn Kinh Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm về tương quan lẫn nhau để tranh luận rằng: “bởi vì mỗi mỗi đều tương quan vào tất cả những thứ khác, không có điều duy nhất trong vũ trụ là quan trọng hơn nữa. Việc ứng dụng như thế nào để nâng cao phẩm giá cá nhân của mỗi con người là quan trọng không kém so với các xã hội lớn hơn trong đó họ tồn tại”.
Ngài đã thức tỉnh được tinh thần yêu nước ở rất nhiều người dân Hàn Quốc. Vượt lên trên một vị thiền sư, ngài đã hiến dâng cả cuộc đời vào ngòi bút, soi tỏ tâm hồn mình và đến năm Kỷ Mùi (1919), ngài đã tham gia, đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng kế hoạch của phong trào đấu tranh giành độc lập ngày 01/03, một phong trào của người dân Hàn trên quy mô toàn quốc với nòng cốt là giới tôn giáo như Thiên Đạo giáo, Cơ Đốc giáo và Phật giáo.
Tháng 03 được coi là tháng chống ngoại xâm của Hàn Quốc. Ngày 01/03/1919 (29/01/Kỷ Mùi), dân tộc Hàn đã đứng lên chống lại ách đô hộ của thực dân Nhật và Tuyên ngôn Độc lập. Do đó, đây được coi là ngày của phong trào giành độc lập và công bố điều đó tới khắp mọi nơi trên thế giới của Hàn Quốc.
Tuy nhiên trong số hơn 1 triệu người tham gia vào hơn 1200 sự kiện đấu tranh, tính tới tháng 04 của năm đó, đã có tới hơn 20 nghìn người bị thương và hy sinh, 47 nghìn người bị cảnh sát Nhật giam cầm, khiến cho phong trào đấu tranh của dân tộc Hàn trở nên suy sụp. Trong bối cảnh đó, xuất hiện một nhân vật lịch sử đã đem đến cho người dân Hàn Quốc niềm hy vọng:
“Người đã đi…
Nhưng biệt ly chỉ đem lại nước mắt uổng phí
Đó là vì ta thấy được tình yêu…
Như khi mới gặp đã lo ngày từ biệt,
Lúc chia tay ta tin sẽ có ngày gặp lại.
Người đã đi rồi nhưng ta đâu có tiễn biệt người đi”.
Thông qua tác phẩm “Sự im lặng của người hằng mong nhớ” (침묵을기억상수욕망 – 常量的願望記得沉默), một bài thơ chứa đựng cả tâm hồn của dân tộc, Hàn Long Vân (Han Yong-un – 韓龍雲), nhà thơ có danh hiệu là Vạn Hải (Manhae – 萬海), đã biến nỗi tuyệt vọng lúc đó trở thành niềm hy vọng. Giai đoạn đất nước “nằm im lặng” dưới sự thống trị của thực dân đế quốc Nhật Bản, Hàn Long Vân (Han Yong-un – 韓龍雲) được xem là một nhà thơ, một vị thiền sư và là một nhà hoạt động cách mạng luôn sống chính trực, luôn đi theo tiếng gọi của “Người mà mình mong nhớ”.
Đại diện cho giới Phật giáo, tập trung ý kiến của các Phật tử, ngày 29 tháng giêng năm Kỷ Mùi (01/03/1919), vào lúc 2 giờ chiều, tại tòa nhà Taehwagwan (Thái Hòa Quán) trên đường Jongno (종-鍾路), Seoul, ngài đã cùng với đại biểu của các giới, các ngành khác của dân tộc Hàn, đứng ra tuyên bố độc lập, lần đầu tiên hô vang 3 lần khẩu hiệu: “Độc lập muôn năm!” (독립을살 – 獨立萬歲). Cùng thời điểm này, tại tòa đình bát giác trong công viên Tháp (Tapgol Gongwon – 塔公園) người ta cũng treo Taegeukgi (Thái Cực kỳ – 태극기-太極旗), quốc kỳ của Hàn Quốc (2) và quần chúng đồng thanh reo vang: “Đại Hàn độc lập muôn năm” (긴한국어독립을살 – 朝鮮獨立萬歲). Tuy nhiên các đại biểu tham gia lúc này đều đã bị thực dân Nhật bắt giam. Ngài cũng bị bắt và tuyên án 7 năm tù, mức án nặng nhất trong số 33 đại biểu bị bắt lúc bấy giờ và đã phải sống tất cả 3 năm trong ngục.
Lý do thực dân Nhật đặc biệt đưa ra hình phạt khắc nghiệt đối với ngài chính là vì thái độ cứng rắn, không chịu khuất phục của ngài. Cho dù bị tra tấn thịt nát xương tan, nhưng ngài không hề bị lung lạc. Khi bị thực dân Nhật bắt viết tờ thú tội vì tham gia và làm đại biểu của phong trào đấu tranh, ngài đã viết “Việc giành độc lập của chúng tôi sẽ diễn ra không ngừng, nó có sức mạnh giống như tảng đá tròn lăn từ trên núi xuống, nó sẽ không ngừng lăn cho tới khi đến được đích. Vấn đề độc lập của Đại Hàn chỉ còn là vấn đề thời gian”. Ngài đã đưa ra những dòng viết không phải là của một bản tự thú mà chứa đựng ở trong đó là ý chí đấu tranh giành độc lập khiến cho người Nhật phải im lặng, không cất nên lời.
Năm Nhâm Tuất (1922), sau 3 năm chịu đựng cuộc sống ngục tù, ngài đã được trả tự do. Ngài đã tham gia vào phong trào khuyến khích sản phẩm sản xuất trong nước, một phong trào đang lan rộng trên toàn quốc để chống lại sự áp bức về kinh tế của thực dân Nhật. Năm Bính Dần (1926), với tác phẩm “Sự im lặng của người hằng mong nhớ” (침묵을기억상수욕망 – 常量的願望,記得沉默), ngài đã tập hợp và chứa đựng trong đó những điều thức tỉnh, những gì giác ngộ được trong cuộc sống, khi tham gia phong trào đấu tranh ngày 1 tháng 3 và khi chủ trương tham gia vào hiện thực của Phật giáo. Tác phẩm này của ngài đã đem lại cho người dân Hàn một niềm hy vọng, đó là tuy hiện tại phải chịu nhiều đau khổ nhưng nếu chịu đựng, vượt qua được thử thách thì chắc chắn sẽ có được độc lập.
Tuy sống cuộc sống đa dạng nhiều sắc màu, cuộc sống của một vị Thiền sư, một nhà hoạt động phong trào giành độc lập và của một nhà thơ, nhưng ngài lại có một tấm lòng trước sau như một, luôn hướng về “người hằng mong nhớ”. Về sau ngài trú lại tại Simujang (Tầm Ngưu trang) ở quận Seongbuk (Thành Bắc – 城北) của Seoul, bắt đầu mở ra các phong trào phản đối việc đổi tên họ của người Hàn do thực dân Nhật tiến hành năm Canh Thìn (1940), phong trào phản đối việc đưa lính là học sinh người Triều Tiên ra trận vào năm Quý Mùi (1943).
Thiền sư Vạn Hải đã sử dụng Kinh Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm để làm một Tuyên bố chính trị, “Tuyên bố các Giá trị” và sự “Sáng tạo của mỗi cá nhân con người”. Quan điểm của mình là cá nhân không quan trọng hơn so với các tập thể, chứ không phải là họ quan trọng như nhau.
Sự cống hiến của Thiền sư Vạn Hải để đấu tranh cho “Hòa bình và Tự do, Bình đẳng”, bảo vệ và phát triển các giá trị tiến bộ của xã hội, cùng với ý tưởng của ngài, đã thắp sáng mãi cho những người Hàn Quốc, để phong trào Dân chủ phổ biến của ngày hôm nay. Cũng đúng tư tưởng văn học của mình, dựa trên ý tưởng của ngài, của tình yêu và tình yêu của chúng sinh, đã đưa ra một tác động lớn đến văn học Hàn Quốc hiện đại. Không ai phủ nhận rằng sức mạnh tâm trí của mình đã được một nguồn năng lượng khổng lồ cho tất cả người dân Hàn Quốc.
Hoa Nghiêm tông đã ảnh hưởng sâu rộng trong giới Phật giáo Hàn Quốc và hiện có Trường Đại học Phật giáo Hoa Nghiêm trong khuôn viên Tổ đình Hoa Nghiêm, tọa lạc tại 12 Hwangjeon-ri, Masan-meon, Gurye-gun, Jeollanam-do,Hàn Quốc, một trong những Trường đại học Phật giáo hệ Đại thừa nổi tiếng ở Hàn Quốc. Nhưng nguồn gốc từ Phật giáo Trung Quốc truyền sang.
Những năm đầu thế kỷ 20 đã chứng kiến sự trỗi dậy của các nghiên cứu tinh thần Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm của Phật giáo Trung Quốc và nhiều Trường Phật học xuất hiện chuyên giảng dạy giáo lý Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm. Một trong những vị được xem là “Cứu tinh Phật giáo Trung Quốc” cùng thời với Thái Hư Đại Sư, đó là lão Hòa thượng Thường Tinh (常 惺老和尚, 1896-1939).
Ngài từng là một nghiên cứu sinh Giáo lý Hoa Nghiêm, thụ học Trưởng lão Hòa thượng Nguyệt Hà (月霞長老和尚, 1858-1917). Lão Hòa thượng Thường Tinh chuyên nghiên cứu và hoằng dương Giáo lý Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm Kinh trong suốt cuộc đời của ngài. Quyển “Phật học khái luận” (佛學概論) do ngài trước tác và xuất bản năm 1929, trong đó, ngài đã áp dụng giáo lý Hoa Nghiêm trong sự “Tự do, Bình đẳng”.
Ngài giải thích các khái niệm về mối tương quan lẫn nhau về xã hội, mô tả mối tương quan một thành viên cá nhân trong một gia đình cũng như những người khác trong xã hội, chẳng hạn như những người nông dân họ sản xuất lương thực và nuôi gia súc. Giống như Thiền sư Vạn Hải, Hàn Quốc, ngài lập luận rằng Phật giáo dạy không có bất kỳ cá nhân nào khác quan trọng hơn.
Đối với lão Hòa thượng Thường Tinh, điều này có ý nghĩa đạo đức: Vì mỗi cá nhân là điều cần thiết cho vũ trụ tồn tại như nó tồn tại, một là bắt buộc phải chăm sóc cho tất cả những người khác một cách vô tư. Lưu tâm đến các cuộc chiến tranh và cuộc đấu tranh đổ máu xảy ra trên thế giới, lão Hòa thượng Thường Tinh cho rằng phải hiểu Chân lý cơ bản này nếu là nó thoát khỏi sự bạo lực có vẻ như cam kết đối với bản thân.
Thiền sư Vạn Hải và lão Hòa thượng Thường Tinh đều ứng dụng thực tiễn Giáo lý Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm, đòi hỏi lòng từ bi và sự tôn trọng, cũng như nâng cao phẩm giá cá nhân của mỗi con người, tuy nhiên tinh thần Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm cũng đã được sử dụng để biện minh cho chế độ chuyên chế và chủ nghĩa phát xít. Điểm nhấn của giáo lý Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm về sự thống nhất hài hòa của tất cả mọi thứ, đã được giải thích bởi một số như là lời kêu gọi sự “Đồng thuận Hài hòa” xã hội.
Vào thế kỷ thứ 7, 8 tại Trung Quốc, nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên (武則天, 624-705) dựa nhiều vào Đại Sư Pháp Tạng (法藏大師, 643-712), người Tập Đại Thành Tông Hoa Nghiêm (vị Tổ sáng lập ra tông Hoa Nghiêm trong nền Phật giáo Trung Quốc) để hợp pháp hóa sự cai trị của vị nữ Hoàng đế lừng danh này(*).
Trong thế kỷ 20, các nhà tư tưởng Phật giáo Nhật Bản, lão Hòa thượng Kametani Seikei (龜谷聖馨 – Quy Cốc Thánh Hinh, 1856-1930), ứng dụng giáo lý Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm để biện minh chủ nghĩa phát xít trong những quốc gia đế quốc Nhật Bản, cho rằng đó là nhiệm vụ của Nhật Bản để đoàn kết dân tộc Đông Á thành một tổng thể hài hòa. Rõ ràng, lão Hòa thượng Kametani Seikei giải thích giáo lý Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm có sự khác biệt so với Thiền sư Vạn Hải, Hàn Quốc và lão Hòa thượng Thường Tinh, Trung Quốc.
Các học giả tiếp tục thâm nhập vào vùng đại hải mênh mông của tư tưởng Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm, tìm cách để giải quyết các vấn đề phải đối mặt với chúng ta ngày nay.
Tôi thấy công việc của GS.TS Jin Y. Park của Đại học Hoa Kỳ đặc biệt sâu sắc và cảm hứng trong vấn đề này. GS.TS Jin Y. Park cảnh báo rằng, những khuynh hướng tư tưởng Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm xuất hiện một cách chính xác khi người ta nhấn mạnh sự “Thống nhất và Hài hòa” bởi sự đa dạng và khác biệt, có liên quan đến việc không phê phán “Bình đẳng”. Nếu “Bình đẳng” được hiểu là làm cho người khác giống như mình, đây không phải là sự Bình đẳng thực sự, cũng không phản ánh những giáo lý Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm.
Trong ánh sáng của những mối quan tâm, tư tưởng Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm của GS.TS Jin Y. Park có một chiều hướng mạnh về “Đạo đức”. Ông lập luận rằng việc thực hiện những Chân lý của Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm nhất thiết phải dẫn con người đến từ bi hơn: Khi đối mặt với những điều tạo nên vũ trụ, chúng ta phải nhận ra rằng sự phức tạp của thực tế là bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn). Từ đó chúng ta trở thành nhận thức của cả hai sự tương quan hoàn toàn của mỗi điều khi tất cả những người khác và các giới hạn của khả năng chúng ta để biết hoàn toàn điều này. Thực hiện hai tương quan lẫn nhau và sự khiêm tốn là gốc rễ của lòng từ bi.
Sự “Tự do, Bình đẳng” đã lan tỏa trong tâm trí của các nhà tư tưởng Phật giáo Đông Á trong hơn một thế kỷ. Vì vậy, nó không ngạc nhiên, một số sẽ cố gắng để hiểu thấu với các khái niệm về thuật ngữ Phật giáo riêng của họ bằng cách chuyển sang tư tưởng Đại thừa liễu nghĩa Hoa Nghiêm, với sự đánh giá cao của sự hòa hợp trong đa dạng.
(*) Pháp Tạng là bậc Tông sư của một thời rất được triều đình kính trọng. Đối với việc an định trăm họ, ngài đã đóng góp một phần không nhỏ. Giảng kinh thuyết pháp, hoằng dương tông phái, khiến muôn dân kính tín Tam Bảo, chăm làm việc thiện, tự thân họ là một phần tử lương thiện của xã hội, đó là một cống hiến vô cùng to lớn của ngài cho triều đình.
Tháng 05 niên hiệu Vạn Tuế Thông Thiên năm đầu, đời Võ Chân (696), thủ lĩnh của bộ tộc Khiết Đan là Lý Tận Trung đã khởi binh chống lại nhà Đường, gây ra đại loạn. Trong vòng 7, 8 tháng, giặc loạn liên tiếp vây hãm mấy thành, đánh thẳng vào Trung Nam Bộ của Hà Bắc, 18 vạn quân của triều đình đã cởi giáp chạy trốn. Giữa lúc nước sôi lửa bỏng này, Võ Tắc Thiên đã không ngần ngại điều động 20 vạn quân ở kinh kỳ đi thảo phạt, đồng thời hạ chiếu thỉnh ngài dựng đạo tràng, tác pháp để hỗ trợ cho ba quân.
Pháp Tạng vâng chiếu, dựng đạo tràng, bên trong an trí một tượng Quán Âm 11 mặt và ngài âm thầm cầu nguyện. Tương truyền, mấy ngày sau đó, ba quân đều nghe tiếng trống trận giục liên hồi, lại có vô số thần binh không biết từ đâu xuất hiện, chỉ trong nháy mắt, giặc loạn khiếp vía, cởi giáp xin hàng, thế là ba quân bình định được giặc loạn. Võ Tắc Thiên vô cùng vui mừng, hết lời ngợi khen uy lực thần binh và ân đức của Pháp Tạng, năm đó Võ Tắc Thiên đã đổi niên hiệu là Thần Công năm đầu.
Đương nhiên, nếu cho rằng một mình Pháp Tạng khống chế được cả mấy mươi vạn đại quân, e rằng hơi quá đáng. Nhưng khách quan mà nói, trong sự nghịệp an định lòng người, cổ vũ muôn dân, ngài đã có một ảnh hưởng vô cùng to lớn và nhất định trong lòng mọi người.
Thích Vân Phong dịch
(Nguồn: Plu Academia – vuonhoaphatgiao.com)