Đầu thế kỷ thứ tư sau Phật Niết bàn Ngài họ Cù Đàm, người nước Ca Ma La. Thuở nhỏ trên đảnh Ngài có cục thịt nổi cao, thường phát ra hào quang,năm sắc xen lẫn.
Ngài thông minh tuyệt vời, chữ nghĩa một phen xem qua là ghi nhớ. Năm 14 tuổi, Ngài phát tâm xuất gia chuyên dùng hạnh thanh tịnh để tự tu. Khi Tổ Bà Tu Mật đến nước Ca-Ma-La, Ngài đến vấn nạn, nhơn đó kính phục xin theo làm đệ tử. Tổ sắp Niết-bàn, gọi Ngài đến phó chúc rằng:
-Chánh pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay ta trao cho ngươi, ngươi phải truyền bá chớ để đoạn dứt, Nghe ta nói kệ:
Tâm đồng hư không giới, Thị đằng hư không pháp. Chứng đắc hư không thời, Vô thị vô phi pháp
Dịch: Tâm đồng hạn hư không, Chỉ pháp bằng thái hư. Khi chứng được hư không, Không pháp, không phi pháp
Ngài vâng giữ phụng trì. Sau khi đắc pháp,Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa khắp nơi.Đến nước ĐềGià,Ngàiđi qua cổng nhà họ Tỳ-Xá-La,chợt thấy trên nóc nhà có hào quang trắng xông lên hư không.Ngài chỉ chúng xem và bảo:
-Trong nhà nầy hiện có một vị thánh nhơn, tuy miệng không nói một lời, chơn không đi một bước, mà thật là bậc căn khí đại thừa. Dù không ra ngoài đường mà biết việc xúc uế. Quả là người nối pháp cho ta, khiến Phật pháp hưng thịnh. Vị nầy, sau sẽ độ được năm trăm người chứng quả thánh.
Ngài nói xong,có người trưởng giả trong nhà bước ra làm lể thưa: – Tôn-giả cần điều gì dừng lại đây?
Ngài bảo:
– Ta đến tìm người thị giả,chớ không cần gì. Trưởng giả thưa: Nhà tôi đâu có người kỳ đặc mà Ngài tìm,chỉ có đứa con trai tên Phục Đà Mật Đa không biết nói, không biết đi,tuổi đã năm mươi,nếu Ngài cần tôi cho, không tiếc. Ngài bảo:
– Đứa con ông nói đó,chính là người tôi tìm.Trưởng giả thỉnh Ngài vào nhà. Phục Đà Mật Đa vừa trông thấy Ngài liền chổi dậy, chắp tay nói kệ:
Phụ mẫu phi ngã thân, Thùy vi tối thân giả? Chư Phật phi ngã đạo, Thùy vi tối đạo giả?
Dịch: Cha mẹ chẳng phải thân, Ai là người chí thân? Chư Phật phi đạo tôi, Cái gì là tột đạo?
Ngài nói kệ đáp: Nhữ ngôn dữ tâm thân, Phụ mẫu phi khả tỷ, Nhữ hạnh dữ đạo hiệp, Chư Phật tâm tức thị, Ngoại cầu hữu tướng Phật, Dữ nhữ bất tương tợ, Nhược thức nhữ bổn tâm, Phi hiệp diệc phi ly.
Dịch: Lời ngươi cùng tâm thân, Cha mẹ không thể sánh, Hạnh ngươi cùng đạo hiệp, Chư Phật chính là tâm, Ngoài cầu Phật có tướng, Cùng ngươi không chút giống, Nếu biết bổn tâm ngươi, Chẳng hiệp cũng chẳng lìa.
Mật-Đa nghe bài kệ xong rất hoan hỷ, bước xuống đảnh lễ Ngài và đi bảy bước, một lòng thành khẩn xin xuất gia
Ngài chấp nhận cho xuất gia, liền triệu tập chúng hiền thánh làm lễ truyền giới cụ túc.Sau đó,Ngài lại dặn dò Mật-Đa:
– Pháp nhãn của Như-Lai thầm truyền đến đời ta, nay ta trao lại cho ngươi, ngươi nên truyền trao chớ đoạn dứt.
Nghe ta nói kệ: Hư không vô nội ngoại, Tâm pháp diệc như thử, Nhược liễu hư không cố, Thị đạt chơn như lý.
Dịch: Hư không chẳng trong ngoài, Tâm pháp cũng như thế, Nếu hiểu rõ hư không, Là đạt lý chơn như.
Mật Đa hân hạnh được truyền pháp vui mừng vô hạn, liền nói kệ khen ngợi:
Ngã sư thiền Tổ trung, Thích đương vi đệ bát, Pháp hóa chúng vô lượng, Tất hoạch A La Hán.
Dịch: Thầy tôi trong thiền Tổ, Hiện là vị thứ tám, Giáo hóa chúng không cùng, Thảy được quả La Hán.
Ngài truyền pháp xong, sắp vào Niết-bàn. Hôm ấy đang ngồi trên bổn tòa, Ngài an nhiên thị tịch. Số chúng Ngài độ có đến năm trăm vị chứng nhị quả. Toàn chúng trà tỳ hài cốt Ngài, lượm xá lợi xây bảo tháp tôn thờ.
1 bình luận trong “8. Tổ Phật-Đà-Nan-Đề (Buddhanandi)”