Thiền đốn ngộ là lối tu trực ngộ bản tâm, gọi là Kiến tánh khởi tu. Không có đề mục, không có phương pháp, không có sở chứng sở đắc, chỉ mê là chúng sanh, ngộ là Phật nên nói “Kiến tánh thành Phật”. Lối tu này không tu mà tu, không chứng mà chứng. Bởi vì khi hành giả trực nhận bản tâm, biết rõ nơi mình có cái không sanh không diệt, mà từ thuở nào mãi chạy theo cái tâm sanh diệt tạo nghiệp luân hồi.
Ngang đây biết rõ bộ mặt sanh diệt của nó, không chạy theo nữa, khi nó dấy lên không cho nối tiếp, không khởi thì lặng yên đừng dấy niệm. Tổ Lâm Tế nói: “Đã khởi chớ tiếp nối, chưa khởi chẳng cần dấy khởi, còn hơn ông hành cước mười năm.” Cổ Đức cũng nói: “Chớ sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm.” Thiền sư Vô Nghiệp suốt đời chỉ dùng một câu “chớ vọng tưởng” trả lời tất cả câu hỏi của Thiền khách.
Có người bảo lối tu này là “Tảo niệm” (quét sạch niệm), song khi ngồi thiền quét, lúc tiếp duyên, xúc cảnh thâu lại. Cứ quét rồi thâu đến bao giờ mới hết niệm? Đúng thế, nếu người tu chỉ biết quét khi ngồi thiền, lúc ra ngoài thì thâu lại, thật là gian nan cho lối tu này. Song ở đây không phải vậy, khi ngồi thiền không theo niệm, lúc ra ngoài thấy các pháp đều duyên hợp hư dối như huyễn hóa không có một pháp đáng lưu tâm, thì làm gì có thâu, ví như người đi chợ, cô ta dạo qua các cửa hàng chen chúc với bao nhiêu người qua lại trên đường phố, nhưng không có vật gì và người nào đáng cho cô để ý. Về đến nhà, người nhà hỏi: Đi chợ có thấy gì không? Cô đáp: không. Có phải thật không thấy gì chăng? Hẳn không phải thế, chỉ không có gì quan trọng đáng để cô chú ý nên nói không thấy gì. Khi tiếp duyên xúc cảnh, hành giả thấy rõ các pháp như huyễn hóa, tự nhiên không có gì đáng để thâu. Bên trong có bao nhiêu vọng tưởng dấy lên đều không tiếp tục, lâu ngày tự hết.
Ngang đây biết rõ bộ mặt sanh diệt của nó, không chạy theo nữa, khi nó dấy lên không cho nối tiếp, không khởi thì lặng yên đừng dấy niệm. Tổ Lâm Tế nói: “Đã khởi chớ tiếp nối, chưa khởi chẳng cần dấy khởi, còn hơn ông hành cước mười năm.” Cổ Đức cũng nói: “Chớ sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm.” Thiền sư Vô Nghiệp suốt đời chỉ dùng một câu “chớ vọng tưởng” trả lời tất cả câu hỏi của Thiền khách.
Có người bảo lối tu này là “Tảo niệm” (quét sạch niệm), song khi ngồi thiền quét, lúc tiếp duyên, xúc cảnh thâu lại. Cứ quét rồi thâu đến bao giờ mới hết niệm? Đúng thế, nếu người tu chỉ biết quét khi ngồi thiền, lúc ra ngoài thì thâu lại, thật là gian nan cho lối tu này. Song ở đây không phải vậy, khi ngồi thiền không theo niệm, lúc ra ngoài thấy các pháp đều duyên hợp hư dối như huyễn hóa không có một pháp đáng lưu tâm, thì làm gì có thâu, ví như người đi chợ, cô ta dạo qua các cửa hàng chen chúc với bao nhiêu người qua lại trên đường phố, nhưng không có vật gì và người nào đáng cho cô để ý. Về đến nhà, người nhà hỏi: Đi chợ có thấy gì không? Cô đáp: không. Có phải thật không thấy gì chăng? Hẳn không phải thế, chỉ không có gì quan trọng đáng để cô chú ý nên nói không thấy gì. Khi tiếp duyên xúc cảnh, hành giả thấy rõ các pháp như huyễn hóa, tự nhiên không có gì đáng để thâu. Bên trong có bao nhiêu vọng tưởng dấy lên đều không tiếp tục, lâu ngày tự hết.
Lại có người bảo “không theo niệm” nhẹ nhàng quá, nếu người tọa thiền bị hôn trầm nặng nề làm sao đuổi được?
Nếu khi bị hôn trầm nặng nề, hành giả chấn chỉnh thân, mở mắt sáng mà không hết, nên khởi niệm xem hôn trầm này xuất phát từ chổ nào?
Tức là đặt câu hỏi “hôn trầm xuất phát từ chỗ nào?” Theo dõi lùng tìm nó thì hôn trầm sẽ tan. Khi gặp tán loạn mãnh liệt cũng thế. Hành giả nên đặt câu hỏi “vọng tưởng này xuất phất từ chổ nào?” Tìm kiếm một lúc thì sẽ hết. Khi hôn trầm tan, vọng tưởng lặng liền trở lại lối tu “không theo niệm” như trước. Lối tu này cụ thể hóa bằng mười bức họa “Chăn trâu Thiền Tông” .
Mã Tổ hỏi Thiền Sư Thạch Cung:
– Ông làm gì đây?
Sư đáp:
– Con chăn trâu.
Mã Tổ:
– Chăn thế nào?
Sư đáp:
– Mỗi khi nó chạy vào ruộng lúa thì lôi mũi nó kéo về.
Cứ thế mãi, giờ ngồi thiền chăn, giờ làm công tác chăn, giờ dạo chơi, tiếp khách cũng chăn… không lơi lỏng. Nên nói hái rau, chặt cũi, nấu cơm, đều là thiền. Chăn cho đến khi trâu không còn, người chăn cũng mất, đây là hoàn toàn an định.
Thiền Sư Lương Giới tìm đến am tranh Hòa Thượng Ẩn Sơn hỏi:
– Hòa Thượng ở đây làm gì?
Ẩn Sơn đáp:
– Tôi thấy hai con trâu báng lộn nhau, chạy ùa xuống sông, đến nay không có tin tức.
Sư đắp y đảnh lễ.
Đây là mục thứ tám trong mười mục chăn trâu nhà thiền. Trâu và chăn đều vắng bặt khi còn một vòng tròn trắng. Đến đây ý nghiệp lặng yên không còn lôi kéo vào luân hồi sanh tử nữa. Nếu hàng Nhị Thừa đến đây là nhập Niết Bàn, vì đã dứt sạch nghiệp sanh tử. Dứt sạch nghiệp mới gọi là hết sanh tử, chưa phải thành Phật. Về các kinh A Hàm đến đây là chứng Niết Bàn (Vô Sanh) của A La Hán.
Kinh Pháp Hoa Phật bảo là Hóa thành không phải là Bảo Sở, về Thiền Tông gọi đây là đất Vô Sanh, là Tử Thủy (nước chết) là đầu sào trăm trượng, cần phải vượt qua mới được.
Căn cứ vào mười mục chăn trâu nhà Thiền, chổ này mới là mục thứ tám người và trâu đều mất.
Phải tiến lên mục thứ chín là lá rụng về cội, nước chảy về nguồn mới được, mục này gọi là nhập Phật giới hay là nhập Pháp thân.
Cần vượt lên mục thứ mười là buông tay vào chợ hay nhập ma giới, mới vuông tròn công đức thành Phật. Dứt sạch nghiệp mới thoát khỏi đau khổ trong sanh tử cho chính mình. Song chưa đạt được Pháp thân, chưa viên mãn công đức cứu khổ chúng sanh, cần phải hòa quang đồng trần làm lợi ích tất cả chúng sanh mới vẹn tròn công đức thành Phật.
Có người nghĩ, hành giả chưa trực ngộ bản tâm tu thiền đốn ngộ được chăng?
Trực ngộ bản tâm là chủ yếu của người tu thiền đốn ngộ. Song có người chưa ngộ mà đủ lòng tin, tu vẫn được. Xem kinh, học luận, hỏi đạo, nghe giảng… thầm nhận mình có bản tâm bất sanh bất diệt, khẳng định không nghi ngờ, người này tu thiền đốn ngộ được.
Thiền Sư Pháp Thường đến hỏi Mã Tổ:
– Thế nào là Phật?
Mã Tổ đáp:
– Tức tâm là Phật.
Sư thầm nhận đến núi Đại Mai cất am tu. Sau Mã Tổ nghe, sai vị Tăng đến thăm dò. Tăng đến hỏi Sư:
– Hòa Thượng gặp Mã Tổ đã được cái gì về ở núi này.
Sư đáp:
– Mã Tổ nói với tôi: tức tâm là Phật, tôi bèn đến núi này.
Tăng thưa:
– Gần đây Mã Tổ lại nói: “Phi tâm phi Phật”.
Sư bảo:
– Ông già mê hoặc người, chưa có ngày xong, mặc ông phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết tức tâm tức Phật.
Vị Tăng trở về thuật lại Mã Tổ. Mã Tổ nói với đại chúng: Trái mai đã chín. Đây là tin nhận mình có bản tâm, chân thật một cách chắc chắn là tu thiền đốn ngộ chăn trâu được.
Hoặc giả nhận rõ vọng tưởng hư dối như sương như khói, không theo, không bị nó dẫn, đến khi nó tan biến hoàn toàn, chơn tâm hiển lộ.
Ngài Huệ Khả sau khi được Tổ Đạt Ma nhận làm môn đồ, Ngài hỏi Tổ:
– Tâm con chưa an xin thầy dạy con phương pháp an tâm?
Tổ Đạt Ma nhìn thẳng mặt bảo:
– Đem tâm ra ta an cho.
Ngài sửng sốt lặng tìm liền đáp:
– Con tìm tâm không được.
Tổ Đạt Ma:
– Ta đã an tâm cho ông.
Ngài Huệ Khả liền biết lối vào.
Bình nhật chúng ta thấy tâm tưởng lăng xăng, khi nhìn lại, khi mất bóng bặt dáng. Thế là nó hư dối không thật. Biết rõ nó hư dối là nó không có khả năng lôi cuốn dẫn dắt chúng ta nữa. Không chạy theo không bị dẫn, chẳng an là gì? An tâm là nhìn thẳng bộ mặt hư dối của nó, nó tự tan biến còn gì nữa mà động.
Thời gian sau, Ngài Huệ Khả thưa Tổ Đạt Ma:
– Con nay bặt hết các duyên.
Tổ Đạt Ma bảo:
– Coi chừng rơi vào đoạn diệt.
Ngài Huệ Khả thưa:
– Không rơi.
Rõ ràng thường biết nói không thể đến.
Tổ Đạt Ma nói:
– Đây là chổ truyền của Chư Phật, chớ có hoài nghi.
Thế là tự nhận biết tâm bất an là hư dối.
Ngài Huệ Khả chăn nó đến lúc không còn tâm dạng là “Bặt hết các duyên” chỉ còn lại cái “rõ ràng thường biết” là chổ Chư Phật truyền nhau.
Có nhiều người học đạo đã thầm nhận mình có cái chân thật sẵn đủ, hoặc biết rõ vọng tâm hư dối, mà vẫn chưa đủ lòng tin để tiến tu, họ cứ đòi hỏi phải ngộ mới tu được, quả thực họ đang đuổi theo cái ảo ảnh của danh từ ngộ.
Đâu biết rằng tin chắc không nghi là đã thầm ngộ.
Hòa Thượng, Thiền Sư Thích Thanh Từ .
Trích trong : HÉ MỞ CỬA GIẢI THOÁT .