Trong sinh hoạt thường ngày, lúc nào ta cũng phải nhớ đến, khi gặp những chuyện vừa ý, ta vui vẻ, sinh tâm tham luyến, đấy là phiền não, lập tức niệm Phật để trấn giữ nó. Gặp những chuyện phiền hà, ta oán hận, bực bội, cũng phải niệm Phật để nâng nó lên, bực bội liền tiêu mất, oán hận cũng được hoá giải. Đây là điều người xưa nói: Không sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm. Không sợ niệm khởi là vì đã có giác, danh hiệu Phật nâng đỡ gọi là giác, khi quên danh hiệu Phật là ta đang mê, khi mê ta buông theo phiền não, như vậy sẽ chịu đau khổ. Khi tỉnh giác, ta không bị cuốn theo phiền não, phiền não lập tức bị ép xuống ngay, như thế gọi là công phu, như thế gọi là biết niệm, như thế gọi là chân niệm Phật. Bởi thế chân niệm Phật không phải ở chỗ mỗi ngày niệm được bao nhiêu, phương pháp chế ngự phiền não của tổ Ấn Quang rất hiệu quả, đây là phương pháp được ngài đề xướng.
Quý vị thấy phương pháp lão cư sĩ Hoàng Niệm tổ sử dụng, khác với phương pháp của tổ Ấn Quang. Phương pháp của Hoàng Niệm Tổ là truy đỉnh niệm Phật, nhanh, cực kì nhanh, mỗi câu nối tiếp mỗi câu, đuổi nhau, A di đà Phật, A di đà Phật, A di đà Phật. Cũng khiến phiền não không thể chen vào được, cư sĩ đã sử dụng phương pháp như vậy, quí vị thấy trước khi ông vãng sinh nửa năm, ông viết thư kể cho tôi. Ông đã niệm mỗi ngày mười bốn vạn tiếng, ông đếm hẳn hoi, đếm số, truy đỉnh, đó cũng là một phương pháp. Cứ đem cả hai phương pháp ra so sánh, xem phương pháp nào thích hợp. Nhưng phương pháp của pháp sư Ấn Quang dễ đắc định hơn, rất nhẹ nhàng, cứ niệm từ từ, không cần hấp tấp. Phương pháp của Hoàng Niệm Tổ giống như chiến đấu, xung phong, quyết liệt, từng câu đuổi nhau. Bởi thế phương pháp tuy đa dạng, nhưng tựu trung vẫn ở chỗ nhiếp tâm, đây mới là điều quan trọng.
Làm sao để thu nhiếp lục căn, Niệm Lão là người thông tông thông giáo, hiển mật viên dung. Ở Mật tông, ông mang danh nghĩa Kim Cang thượng sư. Khi vãng sinh, ông dùng phương pháp truy đỉnh niệm Phật, niệm trong vòng sáu tháng. Phương pháp của tổ Ấn Quang rất ôn hoà, thanh nhã, cả đời ngài theo đuổi phương pháp này.
– HT. Tịnh Không, Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa (VLT 11), tập 400.