Thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, thời kỳ Tượng Pháp là 1.000 năm, và thời kỳ Mat Pháp là 10.000 năm. Thời kỳ mạt pháp là thời kỳ được khái lược trong ba điều trọng yếu: Có giáo lý, không hành trì, không quả chứng.
Mục lục
Ba thời kỳ của Phật pháp: Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp
Phật Pháp được chia thành ba thời kỳ là thời Chánh Pháp, thời Tượng Pháp, và thời Mạt Pháp. Các thời kỳ Pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được ghi chép trong các kinh điển thì không đồng nhất, nhưng hầu hết các bậc cổ đức đều theo thuyết định thời kỳ Chánh Pháp là 500 năm, thời kỳ Tượng Pháp là 1.000 năm, và thời kỳ Mạt Pháp là 10.000 năm.
Về vấn đề trên, các Kinh-luận ghi chép cũng không đồng, đại khái có bốn thuyết:
1. Chánh pháp 1.000 năm, tượng pháp 1.000 năm, mạt pháp 10.000 năm, là thuyết của kinh Đại Bi. Kinh Tạp A Hàm nói chánh pháp 1.000 năm, Luật Thiện Kiến nói chánh, tượng đều 1.000 năm; Hai bộ kinh và luật nầy tuy một không đề cập đến tượng, mạt, một không nói về thời kỳ mạt pháp, song đại lược cũng đồng với thuyết của kinh Đại Bi.
2. Chánh pháp 500 năm, tượng pháp 500 năm, là thuyết của kinh Đại Thừa Tam Tụ Sám Hối.
3. Chánh pháp 1000 năm, tượng pháp 500 năm, là thuyết của kinh Bi Hoa
4. Chánh pháp 500 năm, tượng pháp 1.000 năm, là thuyết của các kinh: Đại Tập Nguyệt Tạng, Hiền Kiếp, Ma Ha Ma Gia. Cổ kim đến nay chư Tổ sư thống nhất rằng: Thuyết chánh pháp 500 năm, tượng pháp 1.000 năm, và y cứ theo kinh Đại Bi thêm vào phần mạt pháp 10.000 năm.
Trong thời Chánh Pháp (chánh có nghĩa là chứng), mặc dầu Đức Phật đã diệt độ, nhưng Pháp nghi vẫn không thay đổi. Có giáo pháp, có sự hành trì, và có người chứng đắc quả vị–đó gọi là thời kỳ Chánh Pháp, và còn được mệnh danh là thời kỳ “Thiền Định kiến cố”. Trong thời Tượng Pháp (tượng có nghĩa là biểu tượng), tuy vẫn có giáo pháp, có sự hành trì, nhưng số người chứng đắc quả vị thì rất ít; thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ “tự miếu kiên cố”. Trong thời Mạt Pháp (mạt có nghĩa là suy vi, yếu kém), Phật Pháp trở nên suy tàn, chỉ có giáo pháp chứ không có sự hành trì, và càng không có người chứng đắc quả vị. Thời kỳ này còn được gọi là thời kỳ “đấu tranh kiên cố”. Đây là lời giải thích thông thường về ba thời kỳ “Chánh, Tượng và Mạt” của Phật Pháp.
Thời kỳ Mạt pháp là gì?
Sao gọi là chánh, tượng và mạt pháp?
Nói thời kỳ chánh pháp, vì “chánh” có nghĩa là “chứng”. Trong thời kỳ nầy, Ðức Thế Tôn tuy đã nhập diệt, nhưng pháp nghi chưa cải: Có giáo lý, có kẻ hành trì, có nhiều người chứng quả.
Nói tượng pháp, vì “tượng” có nghĩa “tương tợ”, tức là mường tượng. Trong thời kỳ nầy đạo hóa chỉ còn mường tượng, pháp nghi lệch lạc. Tuy có giáo lý, có người hành trì, nhưng rất ít kẻ chứng đạo.
Nói thời kỳ mạt pháp, vì “mạt” hàm ý “vi mạt”. Nghĩa là mong manh nhỏ nhiệm, như chót đầu lông chim nhỏ, như hạt bụi điểm sương. Trong thời kỳ nầy đạo hóa suy vi. Tuy có giáo lý, song rất ít kẻ hành trì đúng pháp, huống chi là chứng đạo?
Nhơn Vương Kinh Sớ nói: “Có giáo lý, có hành trì, có quả chứng, gọi là chánh pháp. Có giáo lý, có hành trì không quả chứng, gọi là tượng pháp. Có giáo lý, không hành trì, không quả chứng, gọi là mạt pháp”. Thật ra, thời tượng pháp chẳng phải là không có quả chứng. Song bậc chứng quả như sao buổi sáng trên nền trời, khó tìm khó gặp; Thời mạt pháp chẳng phải là không có người hành trì. Song kẻ hành trì đúng theo giáo lý rất ít, hầu như không có, nên mới gọi là không hành trì.
Theo Tổ Thiền Tâm