Chuyện nhân quả - vãng sanh

Cải mệnh: thoát nghiệp địa ngục, chuyển sinh thành vua

Đức Phật
Thời xưa vào khoảng vào năm 1755, tại vùng Gia Định ( nay là TP. Hồ Chí Minh ) có một người tên Võ Hữu Hoằng giữ chức thư lại trong nha môn. Tên ông vì kỵ húy tên vua Hoằng Lịch  Càn Long) nhà Đại Thanh nên phải đọc trại đi là Võ Thủ Huồng. Trong hai mươi năm làm việc nha môn, là một kẻ gian tham, với nhiều thủ đọan tàn nhẫn, ông đã thâu tóm được nhiều tiền của, trở thành một trong những người giàu có nhất vùng. Thủ đọan của ông đã đẩy không biết bao nhiêu người vào cảnh khốn cùng, quẫn bách.
Có lẽ vì lẽ đó, quả báo khiến gia cảnh ông lâm vào cảnh u sầu, khi vợ ông chẳng may qua đời sớm, gia đình lại không con mà tiền bạc vô cùng thừa thải, Thủ Huồng cáo quan về tậu ruộng vườn, sống đời trưởng giả.
Một hôm, trong giấc mộng, ông thấy mình bị giải tới Âm Phủ. Ở cõi âm, ông tận mắt chứng kiến đủ loại cực hình dành cho người nào phạm nhiều tội ác lúc sinh thời. Hãy còn kinh sợ, ông chợt nhìn thấy một cái gông đặc biệt, vừa to vừa dài, làm bằng những thanh gỗ nặng như sắt nhưng vẫn còn để không, Thủ Huồng bèn hỏi người cai ngục:
– Gông này để làm gì?
Người cai ngục đáp:
– Để chờ một kẻ gian ác bậc nhất là Võ Hữu Hoằng, hiện đang sống tại huyện Phước Chính, Gia Định tỉnh, nước Đại Nam. Năm Ất Sửu, hắn sửa hai chữ ‘ ngộ sát’ thành ‘ cố sát’ làm cho mẹ con Thị Nhãn bị kết án tử, giúp người anh họ chiếm đoạt gia tài. Việc này Thủ Huồng được mười nén vàng, mười nén bạc, một trăm quan tiền. Cũng trong năm đó hắn làm ông Ngô Lại ở thôn Bình Ca bị hai năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng, để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng.Và còn nhiều việc khác nữa.
Thủ Huồng nghe xong sợ tái mặt, không ngờ nhất nhất mỗi việc, từ nhỏ đến lớn của mình trên thế gian thì dưới địa phủ đều rõ mồn một, ông rụng rời tay chân, lắp bắp hỏi cai ngục :
– Ông ta phải làm gì để khi chết xuống đây không bị đeo gông ?
– Đã vay thì phải trả. Phải đem hết những của cải bất nghĩa ấy bố thí đi, lo tu nhân tích đức, may ra sẽ được giảm tội.
Khi trở lại cõi dương, Thủ Huồng đem toàn bộ tài sản dùng vào việc bố thí khắp nơi, xây dựng những công trình phúc lợi, đặc biệt là kết bè làm nhà để giúp dân nghèo dừng chờ nước triều ở ngã ba sông, tạo nên địa danh “ Nhà Bè “ còn tới tận bây giờ.
Thủa ấy, khu vực này còn hẻo lánh, sông ngòi cách trở, nhiều thú dữ như cọp, cá sấu, rắn rết… khiến việc đi lại, buôn bán của nhân dân rất khó khăn. Ông đã xuất tiền, cho người kết bè làm nhà trên sông, trong nhà chuẩn bị nhiều thứ như gạo, nước, củi….cho mọi người tùy ý sử dụng, hết thứ nào lại cấp thêm thứ ấy.
Về việc tạo dựng nên Nhà Bè, sách Gia Định Thành Thông chí chép: Thuở ấy, dân cư còn thưa thớt, ghe đò hẹp nhỏ, hành khách thổi cơm, đun trà rất khổ, vì vậy có người phú hộ ở tổng Tân Chánh là Võ Thủ Hoằng kết tre lại làm bè, trên che lợp phòng ốc, sắm đủ bếp núc, gạo, củi, và đồ ăn để dưới bè cho hành khách tùy ý dùng mà không bắt phải trả tiền. Sau đó khách buôn cũng kết bè nổi bán đồ ăn nhiều đến 20, 30 chiếc nhóm thành chợ trên sông, nên mới gọi xứ ấy là Nhà Bè. Sau này đường thủy, đường bộ lưu thông, dân cư đông đúc, người qua lại đều dùng ghe nhà nên đò dọc phải dẹp bỏ.
Về sau, Thủ Huồng trong mộng lại xuống Âm phủ lần nữa, và thấy cái gông trước kia dành cho mình đã không còn. Khi trở về dương gian, lần này ông quyết tâm bán tất cả những gì còn sót lại, kể cả nhà cửa rồi đi đến Biên Hòa, dựng chùa lớn cúng Phật, rồi ẩn mình nơi đó tu hành đến hết đời.
Ngôi chùa đó ngày nay hiện vẫn còn, ở cù lao Phố, mang tên chùa Chúc Thọ ( ĐC : 542-A2 xã Hiệp Hòa, Biên Hòa, Đồng Nai ). Nói về những công trình còn sót lại đến ngày nay, còn phải kể đến con rạch chạy ngang qua đường Tân Vạn vòng qua quốc lộ 1, do chính Thủ Huồng vét nên gọi rạch Thủ Huồng. Ngòai ra còn có địa danh chợ Đồn và chiếc cầu đá trên đường gần sông Đồng Nai đi Tân Vạn cũng gọi cầu Thủ Huồng, vì chính ông là người cho bắc cầu.
Sau có một thời gian, vua nhà Thanh tên là Đạo Quang (1782-1850) lúc mới lên ngôi ( 1820) có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người tên là Thủ Huồng. Số là khi mới sinh, trong lòng bàn tay vua đã có hai chữ “Thủ Huồng”. Chữ “Thủ” viết bằng chữ Hán nên đọc được, còn chữ kia không rõ là chữ gì, mãi sau mói biết đó là chữ “Huồng” viết bằng chữ Nôm.
Vua cho Sứ thần sang tìm hiểu ngọn ngành, mới biết mình tiền kiếp là ông Thủ Huồng nào đó ở nước Nam, ban đầu tạo nhiều việc ác, sau ăn năn tu sửa, tạo nhiều công đức lớn nên ngày nay mới được ngôi Thiên tử. Khi rõ chuyện, nhà vua có gửi cúng chùa Chúc Thọ ở Biên Hòa một bộ tượng Phật Tam Thế bằng gỗ trầm hương còn lưu giữ tới tận ngày nay.
Thế mới biết, địa ngục âm ty, luân hồi nghiệp báo mà Đức Phật đã tuyên thuyết là điều chân thực, không có mảy may sai sót. Người tạo nhiều việc ác sẽ phải đối mặt với quả báo, với địa ngục. Và con đường duy nhất có thể cứu thoát họ, chỉ có thể là ăn năn sám hối, là tích phúc hành thiện. Không những có thể xóa hết nghiệp chướng, còn có thể tạo nên vô số phước lành ở tương lai, mà chính ông Thủ Huồng là một minh chứng rõ ràng hơn hết.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *