Ngài sinh ngày rằm tháng tư năm 563 trước Công nguyên khi mẹ ngài là hoàng hậu Maya đi ngang qua khu vườn Lambini trên đường từ kinh thành Kapilavastu Devadaha. Ngài là thái tử, tên Siddhartha, con vua Sudduhodàna, thuộc dòng tộc Gotama, nước Sakiya.
Từ nhỏ Ngài đã biểu hiện một trí tuệ phi thường và lòng từ bi bao la. Ngài là bậc văn võ song toàn, am hiểu nhiều lĩnh vực triết lý, giáo lý và cuối cùng trăn trở về mục tiêu đi tìm sự giác ngộ giải thoát tuyệt đối cho chúng sinh.
Để ràng buộc Ngài, vua cha đã cưới công nương Baddakaccàna (Da Du Da La) cho Ngài vào năm 16 tuổi. Năm 29 tuổi, vừa có con là Rahulà, Ngài đã lén bỏ kinh thành xuất gia trong đêm, ngày mùng 8 tháng 2.
Sau sáu năm vừa tầm sư, vừa tự mình tu học theo lối khổ hạnh luyện thân mà không thành công, Ngài đã chọn con đường thiền định, với 49 ngày đêm ngồi bất động dưới cội cây Assatha (Bồ Đề) ở Gaya, làng Uruvela, Ngài chứng thành Phật quả, có đủ tam minh. Năm đó Ngài 35 tuổi.
Từ đó Ngài đã đi nhiều nơi giảng dạy giáo lý giác ngộ giải thoát cao siêu này cho nhân loại và chư thiên. Rất nhiều vua chúa, quan tướng, giáo sĩ bà la môn, thương gia, kể cả người cùng đinh đã theo làm đệ tử tại gia hay xuất gia của Ngài. Rất nhiều đệ tử của Ngài cũng đạt được sự đắc đạo phi thường.
Ngày rằm tháng 2 năm 483 trước công nguyên, được 80 tuổi, Ngài nhập Niết Bàn. Sau khi trà tỳ, rất nhiều xá lợi của Ngài còn để lại và được xây tháp thờ cúng lâu dài, có xá lợi còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Các Thánh tăng, đệ tử của Ngài, đã kết tập các lời dạy của Ngài thành ba tạng kinh điển lưu truyền mãi mãi.
Ngày hôm nay, sau nhiều khổ đau, tang tóc, chiến tranh, bạo lực, Liên Hiệp Quốc đã công nhận Phật giáo là tôn giáo hòa bình và chọn ngày sinh của Ngài là ngày tiêu biểu cho tôn giáo và văn hóa thế giới. Liên Hiệp Quốc đã tổ chức kỷ niệm ngày sinh của Phật gọi là lễ hội Vesak, một cách long trọng tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào năm 2000. Nhiều nhà trí thức tiếng tăm trên thế giới đã tin theo đạo Phật.