Thời gian tại Đại Lâm, Đức Phật còn phải giảng nói cho Mahāli cùng với một số đông dân chúng người Licchavi .
Khi tỳ khưu Sunakkhaṭṭa từng khoe khoang là “sau ba năm sống gần Đức Phật, ông ta Tu tập có khả năng thấy được sắc tướng mỹ diệu của thiên nữ – nhưng chưa nghe được âm thanh của họ” điều ấy rất nhiều người không biết hư thực ra sao?
Đức Phật trả lời : là thiên sắc, thiên âm gì cũng có cả khi tu tập định nhất hướng với mục đích như vậy.
Một hành giả sau khi đắc định, nhất là định tứ thiền, trở lại cận định của tứ thiền – Vị ấy hướng tâm đến các phương với mục đích thấy được thiên sắc, nghe được thiên âm thì vị ấy có thể đạt được sở nguyện.
Không dừng lại ở đó, đức Phật còn khôn khéo, thiện xảo dẫn Mahāli và hội chúng Licchavi từ thiền định, thắng trí lên bốn đạo, bốn quả và Niết-bàn – và chính cái rốt ráo này mới chính là mục đích của Sa môn hạnh.
Cuối thời pháp, cũng do Mahāli và hội chúng Licchavi còn thắc mắc “thân thể và linh hồn là một hay là hai”.
Đức Phật mỉm cười, trả lời rằng, khi nào quý vị tu tập chấm dứt tất cả khổ đau, phiền não rồi – thì sẽ thấy rõ câu hỏi đó thuộc về hí luận, rỗng không, phù phiếm và vô ích.
Rời Vesāli, vượt sông Gaṇgā, dừng chân tại Pāṭaligāma rồi Đức Phật và Đại chúng về Veluvana.
Tuy nhiên, mùa mưa năm ấy, Đức Phật lại an cư tại làng Ekanāḷā gần núi Dakkhiṇāgiri phía Nam kinh thành Rājagaha.
Tại đây, đức Phật thấy có cơ duyên hóa độ một vị đại điền chủ sau này sẽ trở thành một vị A La Hán – đấy là ông Bà La Môn Kasī-Bhāradvāja.
Chuyện sau đó kể rằng, hôm ấy, Bà La Môn Kasī-Bhāradvāja chuẩn bị làm một cuộc lễ hạ điền trọng thể trước khi vào vụ cày bừa cả hằng ngàn mẫu ruộng của ông ta.
Đội quân chăm lo nông vụ này là năm trăm thợ cày trai tráng, mạnh khỏe, năm trăm lưỡi cày và ba ngàn chú bò sung sức.
Ông còn chu đáo sai gia nhân nấu cơm trộn sữa cho quan khách, thợ thầy rất đầy đủ – trước khi chuẩn bị ra đồng.
Đúng vào lúc ấy, Đức Phật xuất hiện chỉ có một mình với bình bát trên tay, đại y vắt vai với hào quang sáu màu dập dờn từng đôi một, rồi ngài dừng lại, cách một quãng trước mặt vị gia chủ cùng thầy thợ.
Dung sắc mỹ diệu và thái độ trầm tĩnh, tự tin của đức Phật làm cho mọi người đều im lặng, chiêm ngưỡng.
Riêng Bà La Môn Kasī-Bhāradvāja thì đã có nghe danh Đức Phật nhưng ông không thích giáo hội ấy, chỉ gồm toàn những người ôm bát đi xin ăn, làm biếng lao động chân tay, ăn hại xã hội.
Vì nghĩ vậy, sau khi biết đấy là Đức Phật, Bà La Môn Kasī-Bhāradvāja cất giọng rất lịch sự nhưng bên sau là cố ý công kích, chế nhạo:
– Thưa sa-môn Gotama! Chúng tôi là nông dân. Chúng tôi phải cày bừa, phải gieo mạ, phải bỏ phân, phải nước tưới, phải chăm bón, phải gặt hái mới có được hạt lúa, mới có gạo thổi cơm.
Ôi! biết bao nhiêu là khó khăn, vất vả, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được cái ăn để duy trì sự sống.
Còn sa-môn Gotama và Chúng đệ tử thì như thế nào?
Chư tôn giả không cày bừa, không gieo mạ, không bỏ phân, không tưới nước, không chăm bón, không gặt hái, không đổ mồ hôi, không tốn công sức… mà đòi có cơm ăn hay sao?
Phải lao động, phải làm việc mới có cái ăn chứ?
Đức Phật mỉm cười với sắc diện tỏa sáng dịu dàng như Trăng rằm rồi chậm rãi đáp:
– Này gia chủ Kasī-Bhāradvāja!
Như Lai cũng là một nông dân! Như Lai cũng cày, cũng bừa, cũng gieo trồng, cũng bỏ phân, tưới nước, cũng tốn công sức chăm bón và gặt hái đó chứ!
Bà La Môn Kasī-Bhāradvāja bất giác cười rộ:
– Thế cày bừa của sa-môn Gotama đâu? Dụng cụ nông tang đâu? Rồi còn nào bò, nào ách, hạt giống đâu?
Vậy thì nước tưới cái gì, bón phân cái gì và gặt hái cái gì – thật là nực cười!
Giọng của đức Phật vẫn toát ra âm thanh điềm đạm, ôn nhu, từ hòa:
– Này điền chủ! Ông không biết đó thôi.
Hạt giống để gieo của Như Lai là đức tin (saddhā); giữ gìn luật giới và hạnh kiểm (tapo) là nước tưới; cày và ách là trí tuệ (paññā), cán cày là biết hổ thẹn tội lỗi (hiri), dây cương là tâm ý an định (mano), lưỡi cày và roi điều khiển là chánh niệm (sati)…
Này điền chủ! Con người sống giữa cuộc đời mà nếu không có đức tin, không có hạnh kiểm tốt, không có sự sáng suốt, tỉnh thức, không biết hổ thẹn tội lỗi, không có tâm trầm tĩnh, ổn định, không có chú niệm trong mỗi một việc làm – thì con người ấy ra sao, cuộc đời này sẽ ra sao, điền chủ?
Bà La Môn cảm thấy thấm thía quá, thú vị quá, ông uống từng lời – có vẻ yên lặng lắng nghe.
Đức Phật nói tiếp:
– Này điền chủ! Ông chăm sóc, giữ gìn ruộng nương thì Như Lai chăm sóc, giữ gìn hành động và lời nói; ăn uống có tiết độ, tri túc và dị giản trong mọi nhu dụng hằng ngày; dùng hạnh chân thật để đối trị với gian xảo, lừa dối; và đạo quả A La Hán là thành quả ruộng nương của Như Lai!
Này điền chủ! Cố gắng, nỗ lực (viriya) là những con bò (tứ chánh cần) đưa Như Lai đến trạng thái không còn bị trói buộc , thẳng tiến bất thối chuyển, đi, đi mãi, đến nơi không còn sầu não.
Còn nữa, công lao khổ nhọc cày bừa gặt hái ấy, nay Như Lai đã thành tựu, đã viên mãn, đạt được hoa trái Bất tử, giải thoát tất thảy khổ đau, phiền muộn, này điền chủ!
Đức Phật thuyết giảng thế xong, Bà La Môn Kasī-Bhāradvāja kinh cảm, phát sanh đức tin, hối hả sai gia nhân bưng một bát lớn cơm trộn sữa dâng cúng đến ngài, rối rít nói:
– Vậy xin tôn giả thọ nhận vật thực này! Tôn giả quả thật là một nông dân, đã gieo trồng và gặt hái được trái quả bất tử!
Đức Phật đưa tay ngăn bát lại, không thọ nhận:
– Vật thực thọ nhận do thuyết giảng giáo pháp, kệ ngôn thật không thích đáng cho Như Lai dùng.
Này điền chủ! Đây là thông lệ của chư Chánh Đẳng Giác.
Khi nào truyền thống tốt đẹp này được duy trì thì sự nuôi mạng chơn chánh còn được bảo lưu, tôn trọng.
Và chính đời sống phạm hạnh thiêng liêng trong sạch ấy của Chư vị Thánh nhân mới là phước điền vô thượng cho chư Thiên và loài người.
Nghe thế xong, Bà La Môn Kasī-Bhāradvāja lại càng tăng trưởng đức tin thêm nữa, hỷ lạc dâng rần rần.
Sau đó Đức Phật còn giảng thêm cho ông ta nghe những cách Cúng Dường dường đúng chánh Pháp là như thế nào.
Mọi hiểu lầm, nghi nan của ông không còn nữa, mắt ông sáng lên, thấy được con đường.
Ông xin được quy y Tam Bảo trở thành một người thiện nam.
Nhân duyên của vị điền chủ này còn hơn thế nữa. Trong thời gian Đức Phật còn an cư tại ngôi làng Ekanāḷā gần núi Dakkhiṇāgiri này – ông ta đã từ bỏ tất cả tư gia, điền sản xin được xuất gia Sa di.
Được biết rằng, thời gian sau, ông được thọ đại giới, sống hạnh độc cư, tinh cần tu tập và ông đã trở thành một bậc lậu tận, A La Hán thánh quả.
( Trung Tâm Hộ Tông
Trích “Một Cuộc Đời – Một Vầng Nhật Nguyệt 4”
Soạn Giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh )
Ảnh : Sưu Tầm
Namo Buddhaya
Namo Dhammaya
Namo Sanghaya