Cuối thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn.
Ngài họ Phả La Đọa sanh trưởng tại miền Bắc Ấn.
Khi còn tại gia, Ngài thường mặc đồ sạch sẽ, tay cầm bầu rượu, đi dạo chơi trong xóm làng, có khi Ngài ngâm thơ thổi sáo, người thường không sao hiểu nổi, họ bảo Ngài là người điên. Sau khi gặp Tổ Di Dá Ca nói lại lời huyền ký Như Lai, Ngài liền tỉnh ngộ tiền duyên, ném bầu rượu phát nguyện xuất gia. Theo Tổ tu hành, Ngài ngộ được tâm tông. Một hôm,Tổ Di Dá Ca gọi Ngài căn dặn:
– Công hạnh của ta gần viên mãn,chánh pháp nhãn tạng nầy trao lại cho ngươi, ngươi phải ân cần gìn giữ chớ để đoạn diệt. Hãy nghe kệ đây:
Vô tâm vô khả đắc, Thuyết đắc bất danh pháp. Nhược liễu tâm phi tâm, Thủy giải tâm tâm pháp.
Dịch: Không tâm không thể được, Nói được chẳng gọi pháp Nếu rõ tâm phi tâm, Mới hiểu tâm tâm pháp.
Sau khi Tổ Di-Dá-Ca nhập Niết-bàn, Ngài đi hoằng khắp nơi tuyên dương chánh pháp. Khi đến nước Ca-Ma-La
Ngài lên pháp tòa giảng đạo, có một trí sĩ đến dưới tòa lớn tiếng tự xưng: – Tôi là Phật Đà Nan Đề, hôm nay quyết luận nghĩa với thầy. Ngài bảo: – Nầy nhơn giả! Nếu luận thì chẳng phải nghĩa, nếu nghĩa thì chẳng phải luận. Nếu nghĩ luận nghĩa, trọn chẳng phải nghĩa luận. Nan Đề biết đây là người nói nghĩa thù thắng, khởi tâm kính phục, thưa rằng: – Con nguyện cầu đạo, được thưởng thức vị cam lồ. Ngài thương xót liền cho xuất gia thọ giới, không bao lâu truyền pháp cho Nan Đề. Đã có người thừa kế, Ngài dự định vào Niết bàn. Ngài liền nhập từ tam muội để vào tịch định. Lúc đó, Đế Thích, Phạm Vương cùng chư thiên đồng đến đảnh lễ,nói kệ:
Hiền kiếp thánh chúng Tổ, Nhi đương đệ thất vị. Tôn giả ai niệm ngã, Thỉnh vị tuyên Phật địa.
Dịch: Hiền kiếp các thánh Tổ, Ngài là vị thứ bảy, Tôn giả thương xót con, Thỉnh vì nói Phật địa.
Ngài xuất định nói với họ rằng: – Pháp ta đã được là không phải có. Nếu muốn biết Phật địa phải lìa có và không.
– Nói xong, Ngài vào tịch định thị hiện tướng Niết bàn. Chư thiên nghe rồi hoan hỷ tán hoa trời, đảnh lễ. Nan Đề cùng đồ chúng trà tỳ thân Ngài, rồi lượm xá lợi xây tháp cúng dường.
1 bình luận trong “7. Tổ Bà-Tu-Mật (Vasumitra)”