Đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết bàn. Ngài người nước Hoa Thị, ban đầu học theo ngoại đạo, giỏi các pháp huyễn thuật, đồ chúng có đến ba ngàn. Khi đến so tài với Mã Minh, bị Tổ hàng phục,liền cùng đồ chúng phát tâm xuất gia. Tổ Mã Minh độ cho Ngài xuất gia, sau truyền tâm pháp. Sau…
thiền định
12. Bồ Tát Mã-Minh ( Asvaghosha )
Cuối thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn. Bồ Tát người nước Ba La Nại, hiệu Mã Minh cũng có hiệu Công Thắng. Vì khi Ngài sanh ra, các con ngựa đều ré lên, nên gọi là Mã-Minh. lại cũng có thuyết nói, mỗi khi Ngài thuyết pháp, các con ngựa trong chuồng ở gần đều lặng lẽ lóng nghe, khi thuyết…
11. Tổ Phú-Na-Dạ-Xa ( Punyayasas )
Giữa thế kỷ thứ năm sau Phật Niết bàn. Ngài dòng Cù Đàm ở nước Hoa Thị, thân phụ là Bảo Thân. Thân phụ sanh được bảy người con trai, Ngài là con út. Thuở nhỏ. Ngài tâm tư bình thản không tịnh không loạn. Ngài thường nói với các anh: – Nếu gặp bực đại-sĩ ngồi nơi đạo tràng thuyết pháp,…
10. Tổ Hiếp-Tôn-Giả (Parsvika)
Đầu thế kỷ thứ năm sau Phật Niết bàn Ngài tục danh là Nan Sanh, người Trung Ân. Thân mẫu mang thai đến 60 năm mới sanh ra Ngài. Lúc Ngài sắp sanh, Thân phụ nằm mộng thấy một con voi trắng to trên lưng có chở một bảo tọa, trong bảo tọa có hạt minh châu, từ ngoài cửa đi vào…
9. Tổ Phục-Đà-Mật-Đa (Buddhamitra)
Cuối thế kỷ thứ tư sau Phật Niết bàn Ngài họ Tỳ-Xá-La ở nước Đề-Già. Từ lọt lòng mẹ đến năm mươi tuổi chưa từng nói một lời,chưa từng đi một bước. Cha mẹ nghi nhơn duyên gì mà Ngài thế ấy? Đến gặp Tổ Phật Đà Nan Đề nói duyên đời trước rằng: – Đứa bé nầy đời trước thông minh…
8. Tổ Phật-Đà-Nan-Đề (Buddhanandi)
Đầu thế kỷ thứ tư sau Phật Niết bàn Ngài họ Cù Đàm, người nước Ca Ma La. Thuở nhỏ trên đảnh Ngài có cục thịt nổi cao, thường phát ra hào quang,năm sắc xen lẫn. Ngài thông minh tuyệt vời, chữ nghĩa một phen xem qua là ghi nhớ. Năm 14 tuổi, Ngài phát tâm xuất gia chuyên dùng hạnh thanh…
7. Tổ Bà-Tu-Mật (Vasumitra)
Cuối thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn. Ngài họ Phả La Đọa sanh trưởng tại miền Bắc Ấn. Khi còn tại gia, Ngài thường mặc đồ sạch sẽ, tay cầm bầu rượu, đi dạo chơi trong xóm làng, có khi Ngài ngâm thơ thổi sáo, người thường không sao hiểu nổi, họ bảo Ngài là người điên. Sau khi gặp Tổ…
6. Tổ Di-Dá-Ca (Miccaka)
Đầu thế kỷ thứ ba sau Phật Niết bàn. Ngài người Trung Ấn, không rõ họ gì. Ngài cùng chúng tiên thọ giáo xuất gia với Tổ Đề Đa Ca. Sau đó, Ngài tu hành chứng được quả thánh. Khi sắp tịch, Tổ Đề-Đa-Ca gọi Ngài lại bảo: – Xưa Như Lai thầm trao đại pháp nhãn cho Đại-Ca-Diếp lần lượt truyền…
5. Tổ Đề-Đa-Ca (Dhrtaka)
Đầu thế kỷ thứ hai sau Phật Niết bàn Ngài tên Hương Chúng ở nước Ma Già Đà. Nhơn thân phụ Ngài nằm mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện trong nhà, chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía trước hiện ra một hòn núi lớn, trang nghiêm bằng bảy báu, trên đảnh núi có dòng suối, nước chảy trong veo,…
4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)
Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết Bàn Ngài dòng Thủ-Đà-La ở nước Sất-Lợi, cha tên Thiện Ý. Trước khi sanh Ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà. Thưở bé Ngài mặt mũi khôi ngô, tánh tình thuần hậu, trí huệ minh mẫn. Khoảng 12 tuổi, Ngài được gặp Tổ Thương Na Hòa Tu đến…
3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)
Thế kỷ đầu sau Phật Niết bàn Ngài dòng Tỳ-Xá-Đa nước Ma-Đột-La, cha tên Lâm Thắng, mẹ là Kiều Xa Da. Ngài ở trong thai mẹ sáu năm mới sanh. Tục truyền ở Ấn-Độ khi nào cỏ Thương-Nặc-Ca sanh là có một vị thánh nhơn ra đời. Chính khi Ngài lọt lòng mẹ thì thứ cỏ ấy cũng mọc lên, vì thế…
1. Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp (Mahakasyapa)
Sanh cùng thời đức Phật Ngài dòng Bà-la-môn (Brahmana) ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha tên Ẩm-Trạch, mẹ tên Hương-Chí. Thưở bé, Ngài dung nghi trang nhã, toàn thân màu vàng, ánh sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướng ngài nói: – Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia. Cha mẹ Ngài nghe nói lo sợ,cùng…