Tổ Huệ Năng khi được pháp ở Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn rồi, Ngài mang y bát về phương Nam. Khi đó đám người kỳ thị đuổi theo giật y bát lại. Trong nhóm đó có Thượng tọa Minh, trước khi tu làm tướng nên cỡi ngựa rất giỏi, rượt kịp. Tổ biết người ta đuổi theo giành y bát, nên Ngài để y bát trên bàn thạch, chui vô lùm cây trốn.
Thượng tọa Minh nhảy xuống ngựa, ôm y bát lên nhưng ôm không nổi. Chừng đó mới giật mình, thì ra đây là vật huyền bí, không phải vật thường. Bấy giờ, ông vừa sợ vừa hối lỗi. Tất cả niệm tranh giành ngang đó chấm dứt. Ông liền gọi: “Hành giả, hành giả! Tôi đến đây vì pháp, chứ không phải vì y bát”.
Khi ấy, Lục Tổ ở trong lùm cây chui ra nói: “Nếu ông vì pháp, thì ta sẽ nói cho ông. ” Rồi bảo: “Ông yên lặng giây lâu, ta sẽ dạy cho” Thượng tọa Minh đứng yên lặng giây lâu.
Tổ nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh? “
Ngay câu đó Thượng tọa Minh liền thấy đạo.
Quý vị thấy Lục Tổ hết sức thật thà. Ngài thấy chỗ cứu kính thế nào thì Ngài nói thế ấy.
Thiện, ác tức là hai bên. Thiện ác, thương ghét, phải quấy v. v… đều là hai bên. Niệm đầu vừa dấy lên thì niệm sau nối tiếp theo nhau. Buông hết hai bên thì không còn niệm, lúc ấy bản lai diện mục hiện tiền. Bản là xưa, lai là nay, diện mục là mặt mắt thật của mình. Hết sức đơn giản.
Nói vậy quý vị sẽ có thắc mắc. Người tu cấm không được nghĩ ác, làm ác, chứ tại sao bảo không nghĩ thiện, làm thiện? Không nghĩ thiện, không nghĩ ác tức là không làm lành cũng không làm ác. Như vậy làm sao tu? Quý vị nhớ trong nhà Phật dạy tu có nhiều cấp bậc. Người tu ít, người tu nhiều, người tu bình bình khác nhau. Tùy theo công phu tu mà sanh trong lục đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người, a tu la, trời.
Trong lục đạo luân hồi có chia ba đường thiện, ba đường ác. Cho nên nghĩ thiện, nghĩ ác đều đi trong luân hồi. Lâu nay người ta quen cho rằng tu là làm việc thiện thôi. Nhưng sự thật tu thiện thì được sanh cõi lành. Làm người, a tu la hoặc trời là sanh trong ba cõi lành nhưng vẫn còn đi trong sanh tử. Nhà Phật gọi đó là tu pháp Nhân thừa, Thiên thừa thôi, chứ không phải pháp giải thoát.
Muốn giải thoát sanh tử thì phải ra khỏi cả thiện lẫn ác.
Nhà Phật cũng nói về hai thứ: hữu duyên từ và vô duyên từ. Hữu duyên từ là còn có sự phân biệt theo duyên thích hợp mà khởi lòng từ bi.
Còn vô duyên từ thì thấy người ta khổ là mình cứu ngay, không phân biệt có duyên hay không có duyên. Thí dụ người không nghĩ thiện không nghĩ ác gì cả, thấy đứa bé té liền bế nó dậy, đó thuộc về vô duyên từ. Chúng ta đa số làm việc thiện mà nghĩ suy nhiều quá. “Việc thiện này làm kết quả không? ” “Được khen hay bị chê? ” v. v… nghĩ đủ thứ.
Đức Phật hay các vị Bồ tát luôn luôn làm lành với tâm vô duyên từ, tức là lòng từ vô duyên. Gặp cảnh thì làm chứ không có nghĩ suy, không xét duyên cớ. Chúng ta bây giờ thấy người đó nghèo đói, mà họ làm thinh, mình cũng bỏ lơ. Ngược lại, nếu họ năn nỉ “Tôi nghèo đói quá, cô bác giúp đỡ giùm” thì mới chịu giúp. Giúp như vậy là có duyên, có sự cầu khẩn, còn bình thường thì không giúp.
Với Phật, với Bồ tát thì không như vậy. Thấy người ta khổ là giúp, khỏi xin xỏ, khỏi cầu khẩn. Cho nên các Ngài làm lành rồi là thôi. Còn chúng ta do đợi xin xỏ, nên giúp người rồi mà họ ngó lơ không thèm cám ơn là bực bội liền. Cho nên có duyên từ thì kèm theo có danh, đòi hỏi này nọ. Còn vô duyên từ không đòi hỏi điều kiện gì hết. Đó mới cao siêu, quý báu.
Đừng cho rằng không nghĩ thiện, không nghĩ ác là xấu. Hiểu vậy như vậy mới thấy gốc của sự tu.
Hòa Thượng, Thiền Sư Thích Thanh Từ .
Trích trong : PHẬT PHÁP TRỊ TẬN GỐC TÂM BỆNH.