Thiền sư Thích Thanh Từ, Thiền Tông

Tâm bệnh – HT, thiền sư Thích Thanh Từ

Phật pháp trị tận gốc tâm bệnh
Ở thế gian, thầy thuốc trị về thân bệnh.
Trong đạo, Phật trị tâm bệnh.
Giữa hai việc điều trị đó, việc nào quan trọng hơn?
– Điều trị tâm bệnh quan trọng hơn.
Bởi vì dù thầy thuốc hay mấy, biết bệnh nhân đang bị đau tim, hay đau phổi, thầy thuốc có thuốc nhưng người bệnh cứ rầu, cứ buồn, thì trị nổi không?
– Không nổi.
Vì tâm người bệnh không an, không vui thì điều trị khó lành.
Vì vậy nên tâm bệnh rất là hệ trọng.
Nếu thầy thuốc có được hai phương thuốc, một trị thân bệnh, một trị tâm bệnh thì hay biết mấy.
Trị như vậy mới toàn hảo, còn chỉ một phần thì chưa được.
Để trị tâm bệnh Phật dạy những pháp để tiêu trừ nguyên nhân sanh ra bệnh.
Bệnh của chúng sanh tới tám muôn bốn ngàn, pháp của Phật cũng có tới tám muôn bốn ngàn.
Nhưng nói về cội gốc của bệnh, thì có sáu thứ căn bản phiền não. Trước khi nói pháp trị bệnh chúng ta cần phải biết các thứ bệnh. Bệnh tình đó đang thế nào, muốn giới thiệu thuốc thì phải biết hậu quả hay hiện trạng bệnh đang hoành hành ra sao.
Bây giờ thử nghiệm lại tất cả chúng ta trong hiện đời khổ hay vui?
Nếu vui thì không có bệnh, không bệnh thì cần gì thuốc.
Nếu có bệnh mới tìm nguyên nhân gây bệnh và trị bằng cách nào.
Trong nhà Phật nói con người bị bốn, hoặc tám thứ khổ vây hãm, không ai thoát khỏi.
Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, có ai khỏi đâu?
Như vậy quả thật chúng ta là bệnh nhân rồi.
Ngoài ra còn ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
Nghĩa là thương yêu xa lìa khổ, oán thù mà gặp mặt hoài khổ, mong muốn không được khổ, thân này tự bại hoại không an khổ. Kiểm lại trong tám thứ khổ chúng ta đều có đủ. Rõ ràng xác định được chúng ta là bệnh nhân rồi, thì mới nói tới trị liệu.
Muốn trị bệnh thì phải phăng tìm nguyên nhân.
Nguyên nhân nào sanh ra những thứ khổ đó.
Phật nói nhiều lắm nhưng ở đây tôi chỉ kể sáu thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Vì có nhân này nên có quả kia. Thí dụ như tham, căn bản là tham sống. Có người nào không tham sống sợ chết đâu? Nhưng rồi cũng phải chết, bởi vậy nên khổ. Bây giờ mình hết tham sống thì không sợ chết. Mà không sợ chết thì đâu còn khổ.
Từ tham sanh bao nhiêu thứ khổ.
Đức Phật chia ra hai thứ: một là tham về ngũ dục, hai là ngũ trần.
*** Tham ngũ dục là: tài, sắc, danh, thực, thùy.
Tài là tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là danh vọng, thực là ăn uống, thùy là ngủ nghỉ, năm cái này để cho mình tham. Từ những tâm tham này sanh ra các thứ khổ kia. Vậy chúng ta phải lấy thuốc gì để trị vi trùng tham?
* Tham tài phải lấy hai thứ thuốc hòa hợp lại trị: thuốc thứ nhất là “bố thí”, thuốc thứ hai là “vô thường”. Phật dạy tất cả tài sản của chúng ta bị năm nhà cướp lấy.
Năm nhà là gì: 1- Nước lụt, 2- Trộm cướp, 3- Con bất hiếu, 4- Lửa cháy, 5- Vua chúa hay quan quyền tìm cách cưỡng đoạt.
Như chúng ta chứng kiến nạn lụt miền Trung vừa rồi, bao nhiêu năm dành dụm chỉ một cơn lũ là cuốn sạch, không còn gì cả. Như vậy tài sản của chúng ta có bảo đảm đâu, nên Phật nói nó thuộc về năm nhà. Nếu không bị lụt, có khi bị cháy cũng rụi. Không cháy thì bị trộm cướp, không bị trộm cướp thì con bất hiếu phá hết sự nghiệp. Không bị con cái thì gặp những thế lực bên ngoài cưỡng bức cướp lấy.
Tuy nói tiền bạc của cải của mình nhưng không bảo đảm giữ được lâu dài, như vậy tham để làm gì?
Nghĩ đến lý vô thường chúng ta bớt tham. Bớt tham thì bớt khổ.
Con người thường có bệnh hễ tiền của trong tay thì được một đòi hai, được hai đòi bốn, muốn thêm hoài.
Ở đây Phật dạy phải xả, phải bố thí.
Nên nghĩ chúng ta có bao nhiêu đủ ăn rồi, phần dư bố thí cho người. Như vậy là bớt lòng tham. Nếu người dư dả đem bố thí, vì biết rằng của cải giữ không được, không có tâm gom góp, keo sẻn là đã trị được bệnh tham tài.
Rõ ràng có bệnh thì có thuốc. Biết được nguyên nhân vì tham tài, mà cầu bất đắc nên khổ. Muốn nhiều của nhưng muốn hoài không được thì khổ. Bây giờ mình đem ra bố thí tức không cần giữ gìn nữa thì đâu còn lòng tham.
Mà không tham thì đâu có khổ.
* Người tham sắc Phật dạy dùng thuốc “quán bất tịnh” để trị.
Bởi vì khi tham sắc thì thấy người đẹp, tự nhiên chúng ta nghĩ ngợi người đó đẹp thế này, người đó quí, sang thế nọ v.v…
Ngược lại nếu chúng ta quán thân mình bẩn thỉu không ra gì, thân mọi người cũng vậy. Quán đến khi mình gớm thân mình, thì thân người khác mình cũng gớm luôn.
Mà gớm thì hết tham. Đó là cách trị bệnh tham sắc.
* Đến tham danh phải dùng pháp quán “vô thường”.
Bởi vì mọi thứ trên đời này được rồi sẽ mất. Thí dụ như người ứng cử Tổng thống được đắc cử, thì bốn năm năm cũng hết nhiệm kỳ, có còn mãi đâu!
Bởi nó không bền, vì vậy phải quán vô thường, quán nó là khổ hai thứ hòa hợp. Khi chưa được danh vì lo lắng chạy chọt đủ thứ đã là khổ. Khi được rồi lo nó mất lại khổ nữa. Nếu thật sự nó mất thì càng buồn.
Cho nên quán tham danh gốc là khổ đau.
Người không hiếu danh dù được mời gọi cũng không muốn. Nếu có làm việc gì thì vì tất cả lợi ích chung chớ không vì danh vị của mình. Đã vì tất cả lợi ích chung thì được không mừng, mất cũng không lo, như vậy mới không khổ.
* Đến việc tham ăn (thực) cũng là gốc của khổ.
Phải dùng hai thứ thuốc “vô thường” và “bất tịnh” hòa lại.
Thức ăn khi còn ở miệng thì quí, nhưng nuốt qua khỏi cổ rồi thì hết quí. Giả sử nó không chịu vào mà ụa ra thì có gớm không? Như vậy nó quí khi còn ở ngoài. Nuốt vô rồi nó trở thành dơ, đâu phải là quí.
Tại vì chúng ta cứ mê say nên cho là quí.
Nếu thấy nhơ nhớp thì đâu có tham. Lại một điều nữa, thức ăn ngon được bao lâu? Chỉ một hai phút ở trong lưỡi trong miệng thôi, qua khỏi cổ thì hết ngon rồi, nên nó tạm bợ vô thường, tham làm gì. Xét như vậy thì bớt được tham ăn.
* Tới bệnh tham ngủ.
Nhà Phật dạy muốn trừ bệnh tham ngủ phải dùng thuốc “vô thường”, thuốc “tinh tấn” hòa lại.
Nên nghĩ mạng sống này không bao lâu, không có gì bảo đảm. Giờ nào còn sống thì mừng giờ đó, qua giờ khác thì không thể biết được.
Vì thân này rất mỏng manh, rất tạm bợ. Nên chúng ta hiện sống, có những việc nên làm đáng làm mà không lo làm, cứ nằm ngủ hoài.
Nhà Phật dùng câu: “cần tu như lửa cháy đầu”, nếu đốm lửa rơi trên đầu thì chúng ta chần chờ hay phủi ngay?
Vô thường đến bất kể lúc nào, chúng ta không thể lường trước được. Vì vậy giờ nào còn sống, còn khỏe thì nên làm tất cả những gì có thể làm, chớ không bỏ trôi ngày giờ lãng phí một cách vô ích.
Như vậy vừa quán vô thường, vừa tinh tấn thì trừ được bệnh tham ngủ. Nên tôi thường nói với Tăng Ni muốn trị bệnh tham ngủ thì phải dùng cây roi tinh tấn mà đánh cho nó thức.
Như vậy là trị năm thứ ngũ dục bằng năm thứ thuốc rồi. Ở đây tôi không nói ngũ trần vì ngũ trần cũng anh em với ngũ dục vậy thôi.
Qua sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Bệnh tham đã có mấy bài thuốc ở trên rồi, đến đây khỏi phải nhắc lại.
**** Kế bệnh sân, thì trị bằng hai thứ thuốc “từ bi” và “nhẫn nhục”.
Nhẫn nhục là giải quyết cấp thời, khi người ta làm trái ý, mình nổi sân lên liền phải nhẫn, buông xả đi thì gọi là nhẫn nhục.
Buông xả dừng được cơn thịnh nộ rồi, nhưng lâu lâu nhớ lại cũng tức. Nghĩ rằng người ta nói bậy, làm bậy, mình mới giận. Nhưng nếu chúng ta biết nghĩ lại, tại vì ngu si nên họ làm quấy thật đáng thương. Nghĩ như vậy mới hết giận luôn, chớ còn đè nén, mai mốt nhớ lại giận nữa thì không được.
Cho nên có thuốc nhẫn nhục mà không có thuốc từ bi thì cũng dễ tái phát. Có nhẫn nhục rồi phải có từ bi quán theo sau đó.
Bởi vì nếu chúng ta có tình thương thì lỗi nhiều thấy ít, nếu không thương thì lỗi ít thấy nhiều, không thể thứ tha được. Vì vậy phải vừa nhẫn nhục, vừa quán từ bi mới trị hết bệnh nóng giận.
**** Đến si, tức si mê.
Si mê có hai tầng bậc:
* Thứ nhất không biết gì là tội, gì là phước, gì là tà, gì là chánh, không phân biệt rành rẽ. Đó là si mê hạng thấp.
Tuy nhiên quí Phật tử thử xét lại xem thiện, ác chúng ta đã phân biệt rành chưa? Đôi khi chúng ta tưởng như mình đã biết rất rành về thiện ác, nhưng có nhiều cái thiện mà thành ác, ngược lại ác lại thành thiện.
Thí dụ cô giáo phạt học trò lười, trốn học hoài thì thấy như ác. Nhưng nhờ phạt nó sợ cố gắng học, như vậy thì ác hay thiện?
Còn giả sử như kẻ ghiền á phiện bị ụa mửa, có người thấy vậy mua á phiện đưa cho họ hút, như vậy thiện hay ác? Mới nhìn như thiện vì kẻ đang khổ, cho hút thì họ đỡ khổ, nhưng sự thật thì ác vì làm cho họ ghiền hoài.
Nên nhiều việc mới nhìn thấy thiện, mà hậu quả lại ác hoặc ngược lại mới nhìn thấy ác nhưng hậu quả lại thiện.
Vì vậy phân biệt thiện ác cũng không phải dễ, phải có trí tuệ mới có thể phân biệt được. Phân biệt được thiện ác mới phân biệt được tội phước. Cái gì tội, cái gì phước? Nếu việc làm giúp ích được người lâu dài thì có phước.
Còn việc làm trước mắt thấy như thiện mà tạo thành cái khổ cho người lâu dài thì trở thành ác. Như vậy thiện ác thật khó xử, khó giải quyết. Nhưng nếu chúng ta phân biệt được thiện ác thì tội phước mới không lầm lẫn.
Cũng vậy tà chánh, rất khó phân biệt.
Có những trường hợp mới nghe như phải, như chánh, nhưng mà rốt cuộc lại tà.
Như có người trong đạo Phật, rất cung kính Phật. Bởi quá cung kính nên tin đức Phật có đầy đủ vạn năng xin cái gì cũng được. Vì vậy mỗi khi có tai nạn hoặc gặp vui buồn cứ đến xin Phật cầu Phật.
Quan niệm như vậy là đã thành tà.
Cung kính Phật tại sao lại tà, đó là vấn đề mà đôi khi Phật tử chúng ta không nhận ra.
Đức Phật từng tuyên bố “ta không có quyền ban phước giáng họa cho ai”.
Vậy chúng ta xin Phật cho hết tai họa thì có ngược lại lời Ngài nói không? Phật dạy một đàng, chúng ta làm một ngả, không phải tà là gì?
Trong đạo, người mắc kẹt bệnh này rất nhiều. Tu thì không chịu tu mà cứ xin.
Phật dạy dùng pháp để trị tâm bệnh mà chúng ta cứ xin là sao?
Có nhiều Phật tử nói tôi theo đạo Phật mười năm rồi, mà động tới thì phiền não đủ thứ. Tu mà không hết khổ thì đạo Phật vô hiệu, không giá trị.
Như vậy kẻ ấy làm tăng giá trị đạo Phật hay làm giảm giá trị đạo Phật? Việc này thật tế nhị. Quí Phật tử phải hiểu tin Phật là nên tin điều gì và không nên tin điều gì.
Người ta cứ ỷ lại vào Phật, cầu mong Phật cho cái này cái nọ. Được như ý thì nói Phật linh, rủ nhau đi chùa. Nếu không được như ý thì Phật không linh.
Phật dạy chúng ta phương pháp tu, nếu có nóng giận nên tu pháp gì, đâu có cầu ai.
Ứng dụng pháp Phật để tu thì phiền não giảm, đau khổ bớt.
Như vậy Phật cứu khổ cho mình rồi.
Cũng như thầy thuốc khám bệnh, cho thuốc, nhưng bệnh nhân không chịu uống, vậy làm sao hết bệnh? Kẻ ấy thầy thuốc cũng chịu không có cách nào khác.
Phật là thầy thuốc trị tâm bệnh cho chúng sanh.
Nhưng chúng sanh không chịu dùng thuốc thì làm sao hết bệnh, nên theo đạo Phật mà vẫn tà như thường.
Hiện nay có rất đông người theo đạo Phật như vậy.
Hòa Thượng, Thiền Sư Thích Thanh Từ .
Trích trong : Trọn Một Đời Tôi (2000).
Được gắn thẻ , , ,

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *